Kiến thức và Kỹ năng kiếm tiền Online

Blog

Bài đăng nổi bật

Hướng dẫn 18 cách kiếm tiền trên TikTok đơn giản, nhanh chóng nhất (2)

  Hiện nay, có rất nhiều  cách kiếm tiền trên TikTok  và kiếm tiền bằng TikTok đang dần trở thành xu hướng của thời đại mới. Nếu bạn còn đan...

CHỈ CẦN CÓ TÀI KHOẢN GMAIL VÀ FACEBOOK, BẠN CÓ THỂ BÌNH LUẬN TRÊN BLOG CỦA TÔI

Bài xem nhiều

Hướng dẫn xem tướng tay chân có thể biết sướng hay khổ

 Về bàn tay thì kích thước, độ dày mỏng của bàn tay, độ dài ngắn, to nhỏ của ngón tay, hình cục giữa các bàn tay, đường vân trên bàn tay,... đều có những học thuyết mệnh lý phức tạp. Còn về chân, dù nằm ở phần dưới cùng của cơ thế nhưng nó lại có trách nhiệm vô cùng to lớn, đó là nâng đỡ trọng lượng của cơ thế, do vậy thông qua hình dáng ta có thể phán đoán được sự phú quý và bẩn hàn của một người.

Tay và cánh tay đểu dài: là tướng cát

Cánh tay nên dài không nên ngắn, người có cánh tay ngắn thường có bệnh trong người. Giọng nói nên êm tai. Bàn chân nên vuông và dày, không nên nhỏ và mỏng, như vậy đi lại mới vững chắc, cho thấy người này có cơ sở vững chắc. Tay và chân vừa chắc vừa dài, cho thấy người này luôn có người ở bên giúp đỡ. Ngón tay trên hẹp dưới rộng như cọng hành tươi, nhưng lại thẳng và thuôn dài, người này được hưởng phú quý. Cánh tay nên dài, nếu cánh tay dài quá đầu gối thì có thể được quý nhân giúp đỡ và cất nhắc, và ngay cả chính bản thân họ cũng có thể làm nên sự nghiệp. Nhưng nếu cánh tay dài quá đầu gối thì trường hợp này rất ít gặp. Bàn tay không có vân nghĩa là vân trên bàn tay nhẵn nhụi và không rõ nét, chứ không có chuyện bàn tay không có bất kỳ đường vân nào. Nếu vân tay của một người quá phẳng và nhẵn nhụi thì cho thấy người này phải làm việc vất vả nhưng thành quả thu được lại rất ít, mà làm việc gì cũng dễ khiến người ta từ chối hợp tác.
 
Bàn tay của người già vì da bị chùng nhão nên dễ xuất hiện nhiều nếp nhăn. Nhưng nếu người trẻ mà có hiện tượng này thì da phẩn là do làm lụng vất vả, người như vậy thường là lao động chân tay, đời sống không khấm khá, cả đời không làm nên công trạng gì. Tay chân mập mạp và mềm mại, người này thường có vận thế thời trẻ rất tốt, điều kiện gia đình khá giả, từ nhỏ đã được cưng chiều, không phải chịu vất vả, mà chỉ biết hưởng thụ. Sau tuổi trung niên cũng không gặp nhiều khó khăn, cuộc đời của người này tương đối may mắn, có thể được hưởng phú quý suốt cuộc đời.
 
Bàn tay nên nhẵn mịn, sáng bóng và hồng hào, các đường vân sâu và nhỏ, không chồng chéo lên nhau, người này thường được hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý.

Bàn tay chu sa: hưởng phú quý

Người có cánh tay dài thì tính tình hào phóng, không so đo tính toán thiệt hơn, cūng luôn sẵn sàng giúp đỡ và ban ơn cho người khác. Còn người có cánh tay ngắn thì tính tình keo kiệt, hay so đo tính toán, chỉ quan tâm xem mình có thiếu gì hay không.
Nếu trên bàn tay có sắc đỏ tươi, giống như màu chu sa thì đó gọi là bàn tay chu sa. Người có bàn tay này thường được hưởng phú quý. Ngón tay như đốt tre, khi khép lại có thể nhìn thấy rô kế hở giữa các ngón tay, người có kiểu bàn tay này thường có ít tiền của, và không tích góp được gì. Người này thường không am hiểu thế tục, để theo đuổi sự lý tưởng họ không quan tâm đến hiện thực, và tất nhiên cũng không coi trọng tiền bạc, dù có kiếm được tiền họ cũng không lên kế hoạch chi tiêu, cho nên hay phải lo lắng về vấn để sinh hoạt.
Ngoài ra, người có đầu ngón tay hình vuông, tức không nhọn và nhỏ, mà vuông và to thì tính tình cẩu thả. Do vậy khi xử lý vấn để thường không thể phân tích vấn để một cách kỹ càng, và cũng không thể quyết đoán, người như vậy thường cũng không biết nhìn xa trông rộng.

Xem tay chân: có thể biết sướng hay khổ

Vui buồn, sướng khổ,... thuộc về tâm trạng của con người, những tâm trạng này đều có thể nhận biết được thông qua dáng vẻ bề ngoài. Muốn biết cuộc sống của một người là sướng hay khổ thì có thể xem tay chân của họ. Người có tay chân vuông vắn, dày dặn và mềm mại thường có cuộc sống hạnh phúc, tinh thần luôn lạc quan. Trái lại, người có tay chân nhỏ và cứng thì cuộc sống thường gặp nhiều trắc trở, mà tâm trạng đau khổ cũng luôn hiển hiện trên khuôn mặt của họ. Nhìn vào da và lông là có thể biết được người đó có thông minh và hiểu biết hay không. Người có trình độ thì lông và tóc thường mềm, da nhẵn mịn và sáng bóng:
  • Da ngón tay giống như da ngỗng, lại có nhiều nếp nhăn sâu và nhỏ, người này tính tình thật thà chất phác và tốt bụng.
  • Tay không nên to, thô và mập như “chân heo”, người có tướng tay này thường ngây ngô dại dột, không có chí khí.
  • Gân và xương ở mu bàn chân nổi quá rõ, đây được coi là bàn chân mỏng, người này thường cả đời phải vất vả chạy ngược chạy xuôi. 
  • Gan bàn chân có nhiều thịt, cho thấy người này khoẻ mạnh. Bàn chân của người giàu có cũng có rất nhiều thịt, và không nhìn thấy gân và xương, bàn chân thường vuông, dày và mềm. 
Còn đối với người nghèo khổ thì mu bàn chân thấp và mổng, gần và xương lộ rõ, và trông có vẻ hơi cứng. Bàn chân không có gót không có nghĩa là bàn chân đó thực sự không có gót chân, mà ý muốn nói người đó khi đi thì gót chân thường không chạm đất. Người này thường có cuộc sống phiêu bạt, vận thế không ổn định, tuổi thọ cũng không cao.

Tay dài: hưởng nhiều phúc lộc

Người có tay dài thường được hưởng nhiều phúc lộc. Nếu trên bàn tay có nốt ruồi đen thì đó là tướng bàn tay may mắn. Tay và chân thường đong đưa, khi đứng người không thẳng, mà thường nghiêng ngả. Người này tính tình ngang ngược và nóng nảy, khó giữ bình tīnh, vận thế thăng trẩm, mọi việc không suôn sẻ. Điều quan trọng nhất đối với người có thân hình đẹp đó là tứ chi phải cân đối, nếu thân dài thì tay phải dài. Nếu thân dài mà tay ngắn thì người này không thể có tuổi thọ cao, hơn nữa cuộc sống lúc trẻ lại không thuận buồm xuôi gió, đến khi về già vẫn không lập nên công trạng gì, và cũng không được hướng cuộc sống nhàn hạ.
 
Bàn tay không nên quá to hoặc quá mập, không nên có hình thù kì dị hoặc nhăn nheo, hai bàn tay nên đầy đặn, có như vậy mới thông minh và phú quý.

Ngón tay nhỏ và mềm: da tài đa nghệ

Ngón tay nhọn, nhỏ, mềm và đẹp, dây thường là bàn tay của nhà nghệ thuật. Người này có năng khiếu nghệ thuật, có tài hội hoạ, biểu diễn, ca hát,... Họ thường lý tướng hoá và có cách suy nghĩ không thiết thực. Nếu các bộ phận khác trên khuôn mặt đểu cân đối thì chắc chắn có thể công thành danh toại. Nếu không cần đối thì tuy có tài nhưng cũng không có cơ hội thể hiện, tâm trạng lúc nào cũng buồn bực và sầu não. Cánh tay dài và thẳng, tròn chứ không nhô xương ra ngoài, da nhẵn mịn và trơn bóng, thịt dày, người có cánh tay này thường có địa vị cao quý, vận thế cũng tốt hơn người khác. Đường vân thông quan tức đường trí tuệ và đường tình cảm hợp lại làm một và chạy ngang qua lòng bàn tay, trông bàn tay như bị đứt làm đôi, do vậy mới được gọi là bàn tay gãy. Người có kiểu bàn tay này tính tình ngay thẳng, chuyên quyển độc đoán, đời sống hôn nhân dễ có vấn để. Người xưa cho rằng, con trai mà có bàn tay gãy thì dễ ly hôn, rất nhiều người trong số họ đều phải trải qua hai lần lập gia đình. Nếu con gái có bàn tay gãy thì ảnh hưởng đến vận mệnh của chổng, và đời sống hôn nhân cũng không thể hạnh phúc.

Tay trái và tay phải: phải xem riêng rẽ

Tay nên dài không nên ngắn, người có tay trái ngắn thường kém hiểu biết, không thích hợp với công tác văn hoá. Người có tay phải ngắn thì thể trạng không tốt, không thích hợp với công việc liên quan đến ngành quân đội. Sự phân chia trái phải được dựa theo lý luận âm dương cương nhu trong Kinh Dịch, người xưa cho rằng trái là văn, phải là võ. Vì vậy dưới đây khi xem tướng tay chân đểu thể hiện rõ sự khác biệt giữa tay trái và tay phải, và lần lượt phân tích trạng thái cát hung thể hiện qua hai tay. Nếu một người khép các ngón tay lại rồi duỗi ra mà thấy hơi cong, cho thấy người này muốn sở hữu mọi thứ, có thể tận dụng mọi cơ hội để đạt được mục đích, là người ích kỷ. Ngón tay bên trái cong, người này vì luôn muốn sở hữu mọi thứ nên trong lòng thường thấp thỏm không yên. Ngón tay bên phải cong, người này có thể làm giàu một cách không chính đáng, nhưng của cải dễ đến và cũng dễ đi. Duỗi bàn tay rồi khép lại thấy ngón tay cong về phía sau, nếu là ngón bên trái thì người này khổ trước sướng sau. Nếu là ngón bên phải thì người này nghèo nhưng lại tham lam.
 
Ngón tay dính vào nhau tức là khi khép bàn tay lại nhưng không thể xoè ra, người này tính tình bảo thủ, hướng nội, thiếu tinh thần can đảm. Nếu ngón bên trái dính vào nhau thì người này cả đời nghèo khổ và cô độc. Nếu là ngón bên phải dính vào nhau thì người này vừa nghèo khổ vừa sống không thọ.Ngón tay đều nhau tức chỉ ngoài ngón cái thì bốn ngón còn lại đểu và thẳng như nhau, đây là kiểu bàn tay đẹp. Người có kiểu bàn tay này tính tình không phức tạp mà rất thẳng thắn, làm việc gì cũng có chừng mực nhất định. Nếu các ngón bên tay trái đểu thì người này hiển đạt tương đối muộn. Nếu các ngón bên tay phải đểu thì người này hiển đạt từ khi còn rất trẻ.
 
Bàn tay nên dài không nên ngắn, tay trái và tay phải cần phù hợp với lý luận âm dương. Cuốn sách này khi luận bàn về bàn tay cũng thường phán đoán riêng lẽ.
 
Móng tay có thể phản ánh tình hình sức khoẻ của một người. Móng tay có màu trắng, người này tính tình dâm đãng, có nhiều ham muốn về sắc dục. Móng tay dày và cứng, dây là người sang trọng, có thể lập nên công trạng. Móng tay mỏng, giòn và dễ bị gāy, người này có thể trạng yếu, đa số đểu có hoàn cảnh xuất thân thấp hèn, cả đời không làm nên trò trống gì.
Lòng bàn tay thường hơi trūng xuống, nhưng nếu lòng bàn tay bên trái trũng xuống rất sâu thì cho thấy đây là người luyện võ. Nếu lòng bàn tay bên phải trūng xuống rất sâu thì cho thấy người này có thân phận thấp hèn, cuộc sống nghèo khổ và thường phải đi làm thuê cho người khác. Bốn ngón tay đểu nhau tức ngoài ngón cái thì bốn ngón còn lại dài gần bằng nhau. Người bình thường thì bốn ngón đểu có sự khác biệt. Còn người có bốn ngón đểu nhau thường là người sang trọng. Người có bốn ngón bên tay trái đểu nhau có thể làm việc trong một tổ chức lớn hoặc trong văn phòng chính phủ, và có thể nắm quyển trong tay. Người có bốn ngón bên tay phải đều nhau có thể phát triển trong ngành quân đội.

Chân: nên dài không nên ngắn

Chân cũng như tay, tức nên dài không nên ngắn. Người có chân ngắn thì nền tảng không tốt, cả đời phải làm lụng vất vả. Người có chân trái ngắn thì cuộc sống vất vả và phải chịu cảnh cô độc. Người có chân phải ngắn thì từ nhỏ đã chịu thiệt thòi, cả đời phải sống trong cảnh nghèo khổ. Ngón chân không nên cong như móc câu, người như vậy thường gặp nhiều khó khăn và thất bại trong cuộc sống, thậm chí phải chịu cảnh tù tội. Người có ngón chân bên trái cong thì có địa vị thấp hèn. Người có ngón chân bên phải cong thì có thể dính dáng đến kiện tụng hoặc tù tội. Ngón chân bên trái lật ra ngoài, người này sống cô đơn đến già, cuộc. sống nghèo khổ. Ngón chân bên phải lật ra ngoài, cuộc sống của người này bấp bênh không ổn định, sống lưu lạc khắp nơi. Ngón chân không được cong vào trong và cũng không được lật ra ngoài, tốt nhất là chụm lại với nhau. Người có ngón chân chụm đều thường là người sang trọng. Ngón chân bên phải chụm đểu, người này tuy không sang trọng nhưng lại có thể ở gần quý nhân, và được quý nhân giúp đỡ.
 
Theo như sách tướng số quan niệm trái văn phải vō thì người có ngón chân bên trái đểu nhau có thể nắm giữ quyền hành trong tay. Còn người có ngón chân bên phải đều nhau thì có thể trở thành một danh tướng. Móng chân và móng tay đểu không nên có màu trắng. Nếu xuất hiện màu trắng thì cho thấy sức khỏe có vấn để. Móng chân không nên lōm vào hoặc lật ra, người có kiểu móng chân này thường phạm tội hình sự.
Nếu quặp ngón chân lại mà không thể duỗi ra thì đây cūng không phải là cát tướng. Người có ngón chân bên trái khít liển với nhau thường có ít người thân, cả đời phải sống cảnh cô đơn và nghèo khổ. Người có ngón chân bên phải khít liển với nhau có thể bị tù tội, hoặc dính dáng đến kiện tụng.
Share:

Các nghi lễ cho người chết theo quan niệm Phật giáo

 Trước khi hoặc trong khi người quá cố đang hấp hối, người nhà phải thực hiện nghi lễ tắm rửa, thay quần áo cho người đó. Trên thực tế, nghi lễ này chính là tiến hành chỉnh trang lần thứ nhất trong người quá cố.

 
Từ hàng ngàn năm nay, trong dân gian da hình thành một loạt tập tục tổ chức tang lễ tương đối hoàn thiện. Có thể nói, phần lớn các tập tục này đều dựa trên các nghi thức cúng tế của Đạo giáo. Ban đầu, Đạo giáo chỉ phổ biến trong dân chúng; các nghi thức cúng tế độc đáo cũng được triển khai rộng rãi trong dân gian. Về sau, các nghi thức này dần được kết hợp với tín ngưỡng và phong tục dân gian. Đạo giáo cũng không ngừng dung nạp những phong tục tập quán của dân gian để làm đầy đủ và phong phú hơn cho các nghi thức cúng tế riêng có của mình, nhằm thích ứng với nhu cầu tâm lý truy điệu người chết của tất cả mọi người.

Chúc khoáng

"Chúc khoáng" là cách người xưa dùng để kiểm tra xem người đang hấp hối đã thật sự tắt thở hay chưa trước khi tổ chức tắm rửa, thay quần áo cho người đó. "Chúc" nghĩa là đặt, để; "khoáng" nghĩa là xơ bông hoặc bông tơ còn mới."Chúc khoáng" là đặt xơ bông hoặc bông tơ còn mới ở phía trước mũi hoặc miệng của người đang hấp hối. Xơ bông rất nhẹ, nếu người đó vẫn còn thở thì chắc chắn sẽ động đậy; ngược lại, nếu xơ bông không động đậy có nghĩa là người đó đã thật sự tắt thở, người nhà có thể bắt đầu tổ chức việc tang. Trong "Lễ ký - Đại ký" có viết: "Chúc khoáng là để kiểm tra xem một người nào đó còn thở hay không."

Tắm gội

Tức là tiến hành tắm gội sạch sẽ cho thi thể của người chết. Cách tắm gội cho người chết về cơ bản cũng tương tự như tắm gội cho người sống, bao gồm cả việc cắt móng tay và cạo râu ria. Nghi lễ này trong đời nhà Chu như sau: Đào một hố sâu trong phòng ngủ, sau đó đặt một chiếc giường phía bên trên hố đó. Thi thể người chết được tắm gội ngay trên giường, nước tắm gội thi thể sẽ chảy xuống dưới hố. Sau khi tắm gội, trên chiếc giường đặt thi thể sẽ đặt thêm một chậu nước đẫy. Nghi lễ tắm gội từ đời Chủ được người đời sau kế thừa, mô phỏng theo.Tuy nhiên, quá trình tắm gội cho người chết không có quy định thống nhất, có những nơi tiến hành tắm rửa trước nhưng cũng có những nơi lại chỉnh trang dung nhan trước. Càng về sau này, trình tự của quá trình tắm gội cho người chết càng trở nên đơn giản hoá.
 
Các bước chuẩn bị để hoàn tất đưa thi thể vào quan tài

Thay quần áo

Việc thay quần áo cho người chết còn được gọi là "tiểu liệm". Tập tục này đã có từ trước đời Chủ và đến đời Chủ thì càng trở nên thịnh hành, phố biến hơn. Thời gian thay quần áo là vào buổi sáng sớm của ngày hôm sau sau khi người đó qua đời. Sau khi thay quần áo, người nhà sẽ quấn chăn xung quanh thi thể rời dùng dây thừng buộc chặt lại. Sau đó lại trùm bao bố lên trên thi thể, cuối cùng là dùng chǎn phú kín. Tiếp đón, người nhà dọn cơm rượu cúng tế cho người chết, gọi là "cúng tiểu liệm". Đêm hôm đó, trong sân nhà phải thắp rất nhiều đền nến. Quần áo "tiểu liệm" cho người chết kỵ dùng vóc (hàng dệt tơ dày, một mặt nhẵn bóng) bởi từ này trong tiếng Trung Quốc đổng âm với "đoạn tử"', nghĩa là "tuyệt tự", sợ rằng gia đình sẽ gặp ác báo tuyệt tử tuyệt tôn. Thông thường, người ta dùng lụa để may quần áo "tiểu liệm" cho người chết, vì từ lụa trong tiếng Trung Quốc đồng âm với từ "trù tử"', nghĩa là phù hộ độ trì cho các thế hệ sau được đông con nhiều cháu. Tập tục thay quần áo cho người chết được truyền thừa theo các đời nhưng về sau đã được đơn giản hoá rất nhiều so với tập tục ở đời Chu.

Mua nước

Trong dân gian, nước dùng để tắm gội cho người chết đều do người nhà đi mua về, tục gọi là "mua nước". Mục đích mua nước vẽ tắm gội cho người chết ngoài việc tẩy rửa sạch sẽ tất cả những tội lỗi người đó phạm phải khi còn sống thì chủ yếu là để linh hồn người đã chết biết rằng, đây không phải là tắm gội cho người còn sống mà là để người chết được sạch sẽ khi đến cõi âm gian, mang lại vinh quang cho tổ tiên. Sau thời gian quàn linh cữu, người nhà phải lựa chọn, định ngày để báo tang. Có thể nói, báo tang chính là một nghi thức đầu tiên sau khi người chết qua đời. Đây là phương thức dùng các tín hiệu để đưa thông tin về cái chết của người quá cố đến thân bằng cố hữu. Nghi thức báo tăng muôn màu muôn vẻ, mang những đặc sắc khác nhau.

Khái quát về việc "báo tang"

"Báo tang" là việc gia đình người quá cố loan báo thông tin về cái chết, ngày giờ tổ chức phúng viếng và chôn cất người quá cố đến đông đảo người thân, bạn bè, láng giểng. Những người này sau khi biết được thông tin sẽ đến chia buồn, phúng viếng. Cùng lúc với việc báo tang, người nhà phải treo một vật làm dấu hiệu lên trước cửa nhà, gọi là "khiêu tiễn". "Tiễn" ở đây chính là phướn giấy, có nơi gọi là "giấy thông thiên".

Giấy báo tang - cáo phó

Cáo phó là hình thức báo tăng được phổ biến rộng rãi nhất. Nếu gia đình người chết không viết cáo phó thị đích thân người nhà hoặc sẽ phải người khác đến nhà của các thân nhân, bạn bè thông báo cho họ về cái chết của người quá cố. Tất cả các thư tín khác đều nhất loạt, dừng lại. Với những thư tín được gửi đến để viếng và chia buồn, người nhà chỉ phúc đáp sau khi kết thúc lễ “tốt khốc”. Nội dung của các phó thường bao gồm này giờ mất, hưởng thọ của người chết, thời gian và địa điểm tổ chức tang lễ,...

Treo đèn tang

Một số địa phương dùng hình thức treo đèn tầng để báo tang. Có mấy dạng đèn tang như sau:
Đèn cổng: Đèn tròn, đế trắng, chữ màu xanh lam; ở phía trước và phía sau viết hai chữ "đại môn" theo thể Tống. Đèn này được treo ở dưới mái hiên, ngay chính giữa cổng chính.
 
Đèn báo tang dùng để báo cho người thân, bạn bè rằng trong nhà đã có người mất
 
Đèn quả quýt: Có hình quả quýt, đế trắng, chữ màu xanh lam. Nếu người chết là nam giới thì viết chữ "Hương ẩm đại tân"; nếu người chết là nữ giới thì viết chữ "Nhụ nhân" rồi treo ở hai bên cổng chính.
Đèn hiếu: Có hình trụ tròn, đế trắng, chữ màu xanh lam. Phía trước viết "Kỷ đại đại phụ (mẫu)", phía sau viết tên họ của người chết. Căn cứ vào số đời con cháu mà người chết có để dùng vải màu trắng, màu đỏ hoặc màu lam, gấp thành số trong đó rồi đốt bỏ. Đèn đỏ: Dạng nhỏ, đế màu đỏ và không viết chữ; còn được gọi là "tiểu hiếu hồng đăng".

Dùng ô báo tang

Phương thức báo trang này rất thịnh hành ở vùng Triết Giang. Cách thực hiện như sau: Phía một người thân trong gia đình đi báo tang. Người báo tin cẩm một chiếc ô che mưa, cắp ngược ở dưới nách, tục gọi là "mang ngược ô báo tử". Người xưa cho rằng linh hồn người chết sẽ nấp trong chiếc ô đó để đi cùng. Khi đến nhà người thân, bạn bè; người này sẽ dựng chiếc ô ở bên cạnh cửa, đầu quay xuống đất, các hướng lên trên. Người nhà nhìn thấy là đã biết có chuyện gì xảy ra, sẽ vội vàng chuẩn bị một bát canh trứng để mời người báo tang vào nhà ăn uống. Ý nghĩa của việc mời canh này là để giải trừ ám khí cho người báo tang. Người này chỉ ăn một chút gọi là ổi sẻ cáo từ, sau đó thông báo ngày giờ khâm liệm. Sau khi người đó đi khỏi, gia đình sẽ phải đập vỡ một cái bát để tiêu trừ tang khí, tiếp đó là chuẩn bị lễ vật, hương nến đến phúng viếng người quá cố.
Share:

Minh đường nơi tích tụ khí, yếu tố thiết yếu về địa thế chọn nhà chung cư

 Minh đường: nơi tích tụ Khí-Yếu tố thiết yếu cuối cùng về địa thế mà bạn cần quan sát trong môi trường rộng chính là sự hiện diện của minh đường. 

 
Nói một cách đơn giản, minh đường cơ bản là một khoảng không gian trống và mở-đó có thể là một cánh đồng, công viên, hay chỉ là một khu vực thoáng đãng phía trước tòa nhà. Khi môi trường tỏa ra Khí tốt, luồng Khí này cần một nơi để tập trung và ổn định. Đó là mục đích của minh đường - cung cấp một không gian để tích tụ Khí.
 
Minh đường phải luôn nằm ở mặt tiền của kiến trúc, tốt nhất là ngay trước lối vào. Ngoài ra, minh đường cũng có thể là khoảng giữa của một nhóm các tòa nhà tạo thành vòng tròn hay vòng cung.
 
Bạn có nhận ra minh đường tại khu dân cư này? Bất kỳ.khoáng không gian mở nào phía trước một tòa nhà đều được xem là địa thế tốt, có chức năng như minh đường giúp tích tụ Khí.Ví dụ về minh đường nằm giữa một nhóm các tòa nhà.Đây cũng được xem là minh đường tốt.
 
Tại những khu dân cư mật độ cao đất chật người đông, bạn sẽ không dễ dàng tìm thấy minh đường. Một số tòa chung cư thậm chí không có lối vào ở tầng trệt, mà có minh đường nằm ở tầng trên. Ở những chương bàn về lối vào tòa nhà và cách chọn căn hộ, tôi sẽ đào sâu hơn vào vấn đề minh đường gần lối vào chính hay minh đường ở trên tầng cao. Ở bước này, với mức độ đánh giá tổng quát, bạn chỉ cần tập trung tìm bất kỳ khoảng không gian mở nào trong vòng bán kính 500m tính từ tòa nhà, đặc biệt là phía trước lối vào chính. 
 
Ví dụ về minh đường nằm giữa một nhóm các tòa nhà. Đây cũng được xem là minh đường tốt

Các tòa nhà có thể tạo thành địa thế

Trong một khu phức hợp chung cư san sát nhau, hoặc một thành phố đông đúc chật hẹp, bạn có thể sẽ phải xem các công trình lân cận như địa thế ảnh hưởng đến tòa nhà của bạn.


Theo quy tắc chung trong Phong thủy cổ điển, các hình thế nhân tạo thường không được tính là địa thế thực thụ, nhưng trong những khu vực có mật độ dân số cao, chúng ta không thể bỏ qua các kiến trúc lớn như những tòa chung cư xung quanh, do kích thước cũng như khoảng cách khá gần của chúng.

Thông thường, để xem xét các tòa nhà cao tầng có khả năng tạo thành địa thế, bạn nên chọn một điểm quan sát trên cao, hoặc một góc nhìn rộng cho phép bạn nhìn toàn cảnh hơn vào tòa nhà. Sẽ không dễ để quan sát các tòa nhà địa thế từ bên trong khu chung cư của bạn. Đó là lý do tôi để dành việc đánh giá các tòa nhà địa thế cho đến giai đoạn chọn lựa căn hộ. Thật ra, các tòa nhà địa thế lân cận còn ảnh hưởng đến căn hộ nhiều hơn chính tòa chung cư căn hộ tọa lạc.
 

Tòa nhà này rơi vào trường hợp thể Ngự Tọa (hình dáng như chiếc ghế bành ). Bạn có thấy tòa nhà bên trái và bên.phải tình cờ hình thành một sa không? Tòa nhà ở giữa trong.khu phức hợp này được che chắn bởi sa với Bạch Hổ và Thanh Long do hai tòa nhà sát bên tạo thành.
 
Tuy nhiên, bạn vẫn cần nhận thức rằng các tòa nhà lân cận cũng có thể được xem là địa thế. Nhưng các địa thế này luôn phải được cân nhắc trong bối cảnh địa thế tự nhiên trong môi trường rộng hơn và bao quát hơn; ngoài ra, để được công nhận là địa thế, các tòa nhà này phải rất gần nơi bạn. Trường hợp này thường phổ biến hơn ở các khu phức hợp chung cư có nhiều tòa nhà cao tầng, so với các tòa chung cư đơn lẻ.
Share:

Khâm liệm là gì? Nghi lễ tiễn vong linh lên đường diễn sẽ ra như thế nào?

 Sau khi người nhà mặc xong áo thọ cho người chết, họ sẽ phải đặt thi thể vào trong quan tài. Nghi lễ này được gọi là "khâm liệm" hay "đại liệm". Cử hành nghi lễ này cũng là để người chết cáo biệt lần cuối cùng với người thân, bạn bè trên dương gian. Vì vậy, nghi lễ này được cử hành rất long trọng.

Khâm liệm

Khâm liệm, nói một cách đơn giản là đặt thi thể người chết vào trong quan tài. Trong sách "Lễ ký - Vấn tang" có ghi chép rằng: "Sau khi người chết được ba ngày sẽ tổ chức khâm liệm." Việc không khâm liệm ngay sau khi người chết qua đời chủ yếu là để chờ người chết sống lại, cũng chính là "gọi hồn phục phách" đã nói đến ở phần trên. Nếu người chết không có hy vọng sống lại thì gia đình mới tổ chức khâm liệm, chuyển thi thể vào trong quan tài.

Những lễ nghi trước khi khâm liệm

Trước khi khâm liệm, một số gia đình sẽ mời đạo sĩ đến để tính toán giờ liệm. Cũng có những gia đình không mời đạo sĩ mà chỉ dựa vào con vật cầm tinh của người chết, can chi của tháng người đó qua đời, lại căn cứ theo thuyết Ngũ hành mà tính toán ra những con giáp phạm xung và những việc cần kỵ huý. Sau đó, họ dán những tờ giấy này lên tường. Khi đưa thi thế nhập quan, tất cả những người thân, bạn bè cầm tinh con giáp phạm xung đều phải tránh mặt, nếu không sẽ bất lợi đối với gia quyến. Dân gian cho rằng chết người là một dạng tai ương và gọi những bản cáo thị này là "ương bảng". 
 
Chuẩn bị trước khi khâm liệm
 
Trước khi khâm liệm, phải dùng giấy bồi dán kín bốn phía xung quanh quan tài; rải dưới đáy quan tài một lớp thân cây đay còn xanh; trên lớp thân đay này lại hồ giấy dày lên. Phần đầu của thi thể được đậy bằng một tấm vải đỏ, hai hố nách được nhét khăn lụa đỏ. Trước khi liệm, lại phủ lên đáy quan tài một lớp giấy bản, trên lớp giấy bản đặt một chiếc chăn bông, hai đầu quan tài đặt "gối nguyên bảo" (gối có hình đĩnh bạc) để nâng đỡ phần đầu và chân của người chết. Lúc này, con cháu người chết sẽ quỳ ở đầu quan tài, những người thân khác đứng vây xung quanh, cất tiếng khóc than.

Quan tài

Quan tài để khâm liệm người chết thường được đóng bằng gỗ. Các loại gỗ đóng quan tài tốt và cứng như gỗ bách, gỗ long não được xếp đầu bảng, thứ đến là gỗ cây thu, cây hoè và cây thông; loại bình thường nhất là gỗ cây liễu. Mọi người thường chuộng tấm ván dày; dày nhất là 6 tấc, dày từ 5 tấc trở lên là thượng đẳng; sau đó tuỳ vào thứ bậc mà giảm dẫn. Phần nắp đậy, phần đáy và hai vách bên của quan tài nếu được làm từ một tấm gỗ nguyên vẹn thì được gọi là "nguyên tấm". Các mảnh ghép khác được phân biệt bằng số ghép "mảnh thứ..". Toàn bộ quan tài có dạng hình hộp chữ nhật, phía trước cao phía sau thấp, phía trước rộng phía sau hẹp. Phía ngoài quan tài được phủ sơn, các màu sơn chủ yếu là màu đen, tím, đỏ hoặc vàng. Mặt ngoài quan tài thường được vẽ hình; với những quan tài được đóng từ loại gỗ cao cấp thì sẽ để nguyên màu gỗ, rồi đánh bóng. Các tranh được vẽ trên bề mặt quan tài thường là tranh Bách thọ, tranh Bốn mùa, Nhị thập tứ hiếu,.. Mặt chính diện ở phần đầu quan tài thường được vẽ hình đài sen nằm giữa những tầng mây, trên dó viết chữ "Linh cữu của..."; mặt đối diện ở phía đầu nhỏ của quan tài về lư hương, nén hương, một số địa phương lại vẽ hình cây rau cải. Một số quan tài trên tấm chính diện ở phần đầu còn viết những câu tốt lành như "Phúc như Đông Hải", "Giọng nói dáng hình như vẫn còn đây"... Mặt trong của quan tài được quét dầu thông hoặc dán giấy vàng, với ý là "hoàng kim nhập quỹ", "để phúc lại cho con cháu". Ngoài ra, bên vách trong của quan tài còn phải dán hình mặt trời, mặt trăng và sao Bắc Đẩu cắt từ giấy vàng, giấy bạc.

Quá trình khâm liệm

Khi khâm liệm, con cả của người chết ôm phần đầu, con thứ ôm phần chân; nếu người chết chỉ có một con hoặc không có con thì những người thân cận nhất trong dòng tộc sẽ trợ giúp hoặc làm thay con. Sẽ có từ 4 đến 6 người bạn hoặc người khiêng quan tài được mời đến, dùng khăn lụa buộc qua lưng của người chết; trước hết sẽ đặt chân của người chết vào trong quan tài, sau đó từ từ đặt toàn bộ thi thế nằm ngửa ngay ngắn vào bên trong quan tài. Sau đó dùng một sợi dây màu đỏ xâu qua lỗ hình vuông ở giữa đồng tiền xu, từ từ đặt lên mũi người chết theo hướng từ trên xuống dưới; lại dùng một sợi dây màu đỏ khác căng từ trung tuyến ở phần đầu quan tài đến trung tuyến ở phần cuối quan tài. Sau khi kéo thẳng sợi dây này, kiểm tra xem ba điểm là mũi của người chết, trung tuyến ở phần đầu và trung tuyến ở phần cuối quan tài đã nằm thẳng hàng với nhau hay chưa. Nếu ba điểm này chưa thẳng hàng thì cần điều chỉnh vị trí của thi thể. Cũng có những địa phương sử dụng một sợi dây mảnh, mỗi đầu dây buộc một đống tiền xu rồi đặt lên hai đầu quan tài. Thi thể người chết sẽ được đặt trên sợi dây này. Sau khi đã đặt thi thể nằm ngay ngắn đúng vị trí, những người bạn sẽ cởi khăn lụa buộc ngang lưng thi thể ra và buộc vào ngang lưng mình, tương truyển làm như vậy sẽ không bị đau lưng. Sau đó, sẽ đặt vào hai bên thi thể trong quan tài những vật dụng mà người quá cố thường ngày vẫn yêu thích như quần áo, khăn mũ, đổ trang sức, đổ dùng hàng ngày và các vật trừ tà dưới âm gian. Một số vùng khi khâm liệm còn có tục đặt dưới gối của thi thể một ít hạt cây bông với ý "đời đời đều có con cháu" nhằm cầu mong con cháu đời sau được hưng vượng về nhân đinh. Sau khi tất cả các đồ vật đã được đặt nằm ngay ngắn trong quan tài, người ta phủ lên trên thi thể những tấm chăn mà bạn của người chết mang đi tặng, tấm chăn cuối cùng là do con hoặc cháu của người chết dâng tặng, tục gọi là "chăn con cháu". Đến đây, nghi lê khâm liệm người chết kết thúc.

Đậy nắp quan tài

Đậy nắp quan tài còn gọi là "liễu đinh", "sát khấu" hay "hợp quan", tức là lấy tấm nắp đậy lên phía trên quan tài. Tại một số địa phương, trước khi đậy nắp quan tài còn có tục "nhìn lần cuối", tức là trước khi an táng sẽ đặt quan tài tại linh đường, nắp quan tài chưa đậy khít lại mà chừa một khe hở để những người thân có thể nhìn thấy thi thể nhằm cáo biệt với người chết một lần cuối cùng. Cũng có trường hợp vì người thân ở xa quê hương nên che đậy hở nắp quan tài nhằm chờ người đó về nhìn thấy người chết lần cuối. Cũng có những người chết không rõ nguyên nhân, người nhà sẽ không đậy nắp quan tài lại ngay mà chờ bộ phận khám nghiệm tử thi đến làm việc hoặc chờ khi tất cả mọi vấn đề đều đã được giải quyết thì mới cho đóng nắp quan tài lại. Khi đóng nắp quan tài, dùng bốn chiếc đinh, tục gọi là "đinh thọ", do thợ mộc dùng búa gõ mạnh đình xuống bốn góc. Trong số đó, chỉ có ba đinh gõ khít xuống quan tài; nếu người chết là nam giới thì ba cây đinh này sẽ là trái hai phải một; nếu người chết là nữ giới thì ba cây đinh này sẽ là phải hai trái một. Cây "đinh thọ" còn lại sẽ đóng thành hình quả đào, còn gọi là "đinh chủ", sẽ được đóng vào mặt phía trước của quan tài theo quy tắc "nam trái nữ phải".
 
Sau khi hoàn tất các bước chuẩn bị, thi thể người chết được chuyển vào trong quan tài
 
Thời xưa, có rất nhiều nghi lễ cần thực hiện khi đóng quan tài. Có những nơi có tục cắt vài sợi tóc của vợ hoặc con người chết, quấn xung quanh đầu nhọn của đinh thọ. Lại có những nơi phải cắt lấy một lọn tóc nhỏ của vợ hoặc con người chết rồi gói lại bằng giấy vàng, bọc bên ngoài đinh thọ. Có những vùng khi đóng "đinh chủ", sẽ phải mời cậu hoặc anh em họ của người chết tới đóng. Lúc này, người cậu thường tranh thủ dạy dỗ những đứa con ruột hoặc con dâu bất hiếu, đồng thời đưa ra một vài câu đố hóc búa. Các con của người chết phải giải được những câu đố này, nếu không người cậu sẽ không đóng cây đinh chủ xuống. Khi đó, chỉ có thể mời một người có uy tín trong dòng tộc đến thuyết phục, những đứa con phải cúi đầu tạ tội thì người cậu mới đồng ý đóng đinh.
Sau nghi lễ nhập quan, những người thân trong gia đình sẽ phân phát tang phục cho những người có quan hệ thân sơ xa gần đi đến phúng viếng người đã khuất. Việc làm này chủ yếu là để bày tỏ tấm lòng hiếu thuận và sự tiếc thương đôi với người quá cố. Đây là một lễ tục của Nho gia.

Giới thiệu sơ lược về trang phục

Ở Trung Quốc cổ đại, từ đời Chủ đã có tục sử dụng trang phục một màu, chủ yếu đều là màu trắng. Bên cạnh đó còn có chế độ "ngũ phục", tức là dựa vào độ nặng nhẹ, cách cắt may cẩn thận hay thô vụng, thời gian thực hiện dài hay ngắn mà chia trang phục thành 5 loại khác nhau là: Trảm suy, tề suy, đại công, tiểu công và tư mã. Mọi người cũng căn cứ vào tiêu chuẩn "ngũ phục" mà chia những người thân thuộc với người chết thành "hữu phục thân" (người thân để tang) và "vô phục thân" (người thân không để tang). Quan hệ đối với người chết của những người nằm trong nhóm "ngũ phục" là thân, những người nằm ngoài nhóm "ngũ phục" là sơ. Ngày nay, tang phục chỉ cần đảm bảo yêu cầu gọn gàng giản dị, thể hiện sự tôn nghiêm của tang lễ.
 
Tang phục ở các nước châu  Âu phần lớn đều có màu đen; sau khi tang lễ được tổ chức khoảng nửa năm thì sẽ có thêm màu trắng, màu xám, màu tím hoặc màu tím nhạt. Tang phục ở nước Iran lại sử dụng màu vàng để biểu thị sự tàn lụi. Tang phục ở nước Syria và nước Yemen lại có màu xanh lam. Người Nhật lại thường sử dụng tang phục màu trắng hoặc màu đen.
 
Tang phục đa dạng, muôn màu muôn vẻ
 
Tang lễ ở Bắc Kinh có rất nhiều điểm khác biệt, tang phục của các dân tộc cũng khác nhau ở các vùng miền. Tang phục của dân tộc Mãn và dân tộc Mông thường rất nhẹ; tang phục của quân đội Hán tương đối nặng còn tang phục của dân tộc Hán là nặng nhất. Trước đây, chỉ cần nhìn vào tang phục là có thể đoán người đó thuộc dân tộc nào. Sau này, phong tục của các dân tộc có sự pha trộn với phong tục của dân tộc Hán nên dẫn dẫn đã trở nên khó phân biệt được.
Share:

ĐẠO GIÁO TRUNG HOA VÀ CÁC TÔNG PHÁI NỔI BẬT


 I. KHỞI NGUỒN

Về khởi nguồn chính thức của Đạo Giáo thì rất mơ hồ, vì nó là một phần trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, người Trung Quốc thờ thần gì, có thần thoại gì thì gần như Đạo Giáo thờ vị thần ấy. Truyền thuyết về Vũ Vương phạt Trụ sáng lập nhà Chu lưu truyền trong dân gian có thể coi là câu chuyện cổ xưa nhất về việc hình thành và phát triển của đạo giáo vậy. Theo Phong Thần Diễn Nghĩa thì thủy tổ của Đạo Giáo là Hồng Quân Lão Tổ, ông này thu nhận được 3 đệ tử là Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn và Đạo Đức Thiên Tôn. Ba vị này truyền bá tư tưởng, phép tu tiên cho các đệ tử của mình. Trung Hoa từ xưa đã có nhiều người chán kiếp hồng trần, muốn tu luyện thành tiên để vượt ra ngoài sự luân hồi sinh tử nhân gian, nên ba vị này không sợ thiếu đệ tử. Vấn đề nảy sinh là ... nhiều người đi tu quá, đến lúc ai cũng đủ đạo hạnh và công lực mà chỗ trên thượng giới thì chỉ có hạn, thế là ba vị tôn sư Ngọc Đảnh Chân Nhân (Nguyên Thủy Thiên Tôn), Thông Thiên Giáo Chủ (Linh Bảo Thiên Tôn) và (Thái Thượng Lão Quân) Đạo Đức Thiên Tôn ngồi lại với nhau để "quy hoạch và cơ cấu" lại đám đệ tử của họ. Theo đó một trận chiến sẽ nổ ra và các đệ tử sẽ lựa bên để tham gia, rồi tùy theo chiến tích và đóng góp của từng người sẽ chọn ra ai thành tiên, ai kém hơn thì phải chịu làm thần. Từ đó hình thành nên vũ trụ thần linh của người Trung Quốc, trong đó có những vị mà chúng ta còn thờ phụng đến tận ngày nay như Thần Tài, Na Tra, Lục Đinh Lục Giáp, Thiên Lôi,...

Rồi sau đó tới thời Xuân Thu - Chiến Quốc, lúc này nhà Chu đã suy yếu, nơi nơi chư hầu nổi lên đánh giết lẫn nhau tranh quyền bá chủ. Trong cơn binh lửa, nhiều nhà tư tưởng đề ra những đường lối, phương pháp để yên thiên hạ, đưa dân chúng thoát khỏi cảnh binh đao. Tại nước Chu có một người họ Lý tên Đam, hơn 60 năm làm chức thủ thư trong thư viện nhà Chu, đọc hết tất cả các sách trong ấy, cộng thêm thiên tư mẫn tiệp, một ngày nọ ngộ ra chân lý và ông gọi đó là Đạo. Ông xưng là Lão Tử và khuyên mọi người nên sống vô vi, thuận theo tự nhiên, theo đạo lý, nhưng khi đó đang là thời chinh chiến, những gì ông nói ko có mấy người hiểu và nghe theo. Một ngày nọ, Lão Tử leo lên lưng trâu đi về phía tây, từ đó đi đến ải Hàm Cốc nước Tần, tại đây ông lưu lại 3 ngày, viết ra những điều tâm niệm của mình, chính là Đạo Đức Kinh sau này. Ông trao bộ sách này lại cho Doãn Hy, quan giữ ải vì nhận ra ông này có căn cơ, còn dặn rằng cứ theo sách này mà tu luyện thì sẽ thành tiên, thế rồi Lão Tử tiếp tục leo lên lưng trâu đi mãi về phía tây, vào tận trong sa mạc, từ đó về sau ko còn ai trông thấy.

Quyển Đạo Đức Kinh của Lão Tử được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian, có nhiều điểm tương đồng với nhân sinh quan của những người theo phái Âm Dương Gia - Ngũ Hành, từ đó họ dùng cuốn sách này để hoàn thiện thêm cho học thuyết, thêm mấy trăm năm nữa, cả hai trường phái này hòa làm một và được gọi là Đạo Giáo. Lão Tử được tôn xưng là thủy tổ của Đạo Giáo và được ban xưng là Thái Thượng Lão Quân, tuy nhiên vẫn có ý kiến cho rằng Lão Tử chỉ là một hóa thân giáng trần của Đạo Đức Thiên Tôn - Thái Thượng Lão Quân mà thôi.

II. CÁC TÔNG PHÁI ĐẦU TIÊN CỦA ĐẠO GIÁO

Theo chiều dài của lịch sử Trung Hoa, đạo giáo trải qua nhiều cơn hưng khởi và suy tàn, hầu như trong mỗi triều đại do người Hán lập ra ở Trung Hoa đều có sự dính dáng ít nhiều với Đạo Giáo. Trước khi nhà Hán thành lập, Trương Lương, được người đời xưng tụng là Mưu Thánh từng nhận Hoàng Thạch Công - một trong ba ẩn sĩ nổi tiếng thời chiến quốc làm thầy. Đến thời Tam Quốc, nhà Hán suy vi, khi đó nổi lên Thái Bình Đạo.

1/ Thái Bình Đạo

Vu Cát là một ẩn sĩ ở Sơn Đông, có viết ra một quyển Thần Thư, sau này gọi là Thái Bình Thanh Lĩnh Kinh, gọi tắt là Thái Bình Kinh. Một đệ tử của Vu Cát đã dâng sách này cho vua Hán Thuận Đế (tại vị 126-144). Được xem là kinh điển tối yếu trong giai đoạn ban đầu hình thành Đạo giáo, quyển đạo kinh này bàn về phụng thờ trời đất, thuận theo âm dương ngũ hành, tảo trừ đại loạn, giúp thiên hạ thái bình, sách còn bàn sự hưng phế của quốc gia, phương pháp dưỡng sinh, cách tu luyện thành thần tiên, bùa chú, v.v... Triều đình cho rằng đây là sách tà đạo nên tịch thu. Ai đọc Tam Quốc Chí đều biết rằng sau này Vu Cát đến đất Cối và Ngô (nay là huyện Cối Kê của Chiết Giang và huyện Ngô của Giang Tô) lập tịnh xá, đốt hương tụng đọc đạo thư, tế tạo phù lục bùa chú, lấy nước trị bệnh, thu hút đông đảo quần chúng. Tôn Sách cho là tà đạo nên giết Vu Cát, nhưng đó là chuyện về sau.

Tuy triều đình tịch thu sách nhưng Thái Bình Kinh lại lưu truyền trong dân gian. Bấy giờ là cuối đời Đông Hán, bọn ngoại thích và hoạn quan lũng đoạn triều chính, cường hào và địa chủ nắm giữ đất đai, lại thêm bệnh dịch lưu hành, nên nông dân điêu linh thống khổ đến nỗi đã nổi loạn. Nhân dịp này, Trương Giác người huyện Cự Lộc, tỉnh Hà Bắc đã lợi dụng Thái Bình Kinh để lập giáo, tên gọi là Thái Bình Đạo, qua đó quy tụ nông dân để khởi nghĩa gọi là Hoàng Cân - triều đình nhà Hán gọi là giặc Khăn Vàng. Ông kết nạp được 36 vạn giáo chúng, cứ 1 vạn người thì lập thành 1 "phương", mỗi phương đặt ra 1 đại soái. Ba mươi sáu phương đó được phân bố ở 8 trong tổng số 12 châu lớn của lãnh thổ nhà Đông Hán là Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự. Năm 184, Trương Giác thống lĩnh giáo đồ làm loạn Trung Nguyên, triều đình phái ba cánh quân đi đánh dẹp là Lư Thực, Hoàng Phủ Tung và Chu Tuấn đi dẹp. Cũng trong năm đó thì Trương Giác bệnh chết, nốc bùa uống đan cũng đếch ăn thua Em ông là Trương Lương lên thống lĩnh quân sĩ, không lâu sau bị Hoàng Phủ Tung đánh bại hoàn toàn. Hoàng Phủ Tung tìm đến mộ ông, sai quân băm xác, chặt đầu mang về Lạc Dương dâng Hán Linh Đế. Tuy Trương Giác, Trương Lương, Trương Bảo đã chết nhưng dư đảng của Thái Bình Đạo vẫn lẩn trốn trong chốn dân gian, lâu lâu lại có những bậc kỳ nhân dị sĩ xuất hiện như Nễ Hành, Vu Cát, ...

2/ Ngũ Đấu Mễ Đạo

Ngũ Đấu Mễ Đạo – dịch nôm là "đạo Năm Đấu Gạo", cũng gọi Thiên Sư Đạo, là một giáo phái ra đời cuối đời Đông Hán, do Trương Lăng (34–156) sáng lập. Người đời sau gọi họ Trương là Trương Thiên Sư, nên Ngũ Đấu Mễ Đạo còn có tên khác là Thiên Sư Đạo. Lăng người đất Phong (nay là huyện Phong, tỉnh Giang Tô), một hậu duệ của Trương Lương. Trương Lăng từ nhỏ đã nghiền ngẫm về Đạo Đức Kinh, thiên văn, địa lý, Hà Đồ, Lạc Thư, thông đạt Ngũ Kinh; khi trưởng thành từng làm quan lệnh ở Giang Châu, thuộc Ba Quận (nay là Trùng Khánh, Tứ Xuyên), thời Hán Minh Đế. Về sau, ông từ quan, ẩn cư trong núi Bắc Mang Sơn học đạo trường sinh. Thời Hán Thuận Đế, Trương Lăng vào Ba Thục, tu đạo ở núi Hạc Minh Sơn (cũng gọi Cốc Minh Sơn), xưng là Tam Thiên Pháp Sư Chính Nhất Chân Nhân, nói rằng mình được Thái Thượng Lão Quân truyền đạo Chính Nhất Minh Uy, phong làm Thiên Sư. Vì vậy, dân gian gọi đạo của ông là Thiên Sư Đạo.

Do người nhập đạo phải nộp 5 đấu gạo, do đó đạo này gọi tên là Ngũ Đấu Mễ Đạo (đạo 5 đấu gạo), đạo này chịu ảnh hưởng nặng nề của Vu thuật – phép phù thủy của dân tộc thiểu số tại Ba Thục như lên đồng, nhập xác, phù chú, bùa yểm, độc trùng… nên chủ yếu phát triển ở phía Tây Nam Trung Quốc, còn phương đông thì lại chuộng đạo Thái Bình như đã kể ở trên. Khi Trương Lăng mất, con là Trương Hành kế thừa việc truyền đạo. Khi Trương Hành qua đời, con của Trương Hành là Trương Lỗ kế vị. Cả ba đời ông cháu được người đời gọi là Tam Trương, nhưng trong nội bộ đạo phải gọi là Tam Sư: Trương Lăng là Thiên Sư, Trương Hành là Tự Sư, và Trương Lỗ là Hệ Sư. Trương Lỗ cai trị khu vực Ba Thục và Hán Trung gần 30 năm với một chính quyền hợp nhất tôn giáo với chính trị. Đến năm Kiến An 20 (tức năm 215), tháng 3, Tào Tháo đánh Hán Trung. Đến tháng 11, Trương Lỗ thua, phải dắt gia quyến và thuộc hạ về Nghiệp Thành quy hàng Tào. Tào Tháo dùng lễ trọng đãi Trương Lỗ để lợi dụng thế lực và ảnh hưởng của Trương Lỗ. Tào Tháo phong Trương Lỗ làm Trấn Nam Tướng Quân, tước Lương Trung Hầu. Năm người con của Trương Lỗ cũng được phong tước hầu. Tào Tháo và Trương Lỗ còn kết thông gia với nhau. Chính quyền của Trương Lỗ tại Ba Thục và Hán Trung bị diệt. Tuy nhiên Ngũ Đấu Mễ Đạo vẫn phát triển, dù tổ chức bị hỗn loạn, nhất là sau khi Trương Lỗ bệnh và mất. Tín đồ mạnh ai nấy truyền đạo, không theo phép tắc gì cả. Nhiều thành phần lợi dụng tôn giáo để làm việc bất chính, hoang dâm. Sau đời Tam Quốc đã có mấy phen giáo đồ Ngũ Đấu Mễ Đạo nổi dậy chống chính quyền nhưng đều bị dập tắt. Ngũ Đấu Mễ Đạo đã trải qua hai cuộc cải cách do đạo sĩ Khấu Khiêm Chi (Bắc Ngụy) và đạo sĩ Lục Tu Tĩnh (Nam Triều Tống) tiến hành. Khấu Khiêm Chi cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo (tức Thiên Sư Đạo) ở phương bắc nên nhánh này gọi là Bắc Thiên Sư Đạo, còn Lục Tu Tĩnh cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo ở phương nam nên nhánh này gọi là Nam Thiên Sư Đạo. Đến đời Tùy, Nam và Bắc Thiên Sư Đạo hợp nhất làm một. Sau đời Đường, cháu của Trương Lăng tức là Trương Thịnh (cháu đời thứ tư của Trương Lỗ) tiếp tục truyền giáo tại Long Hổ Sơn ở Giang Tây. Núi này dần trở thành một trung tâm truyền bá Thiên Sư Đạo và giáo phái mang tên mới là Long Hổ Tông theo tên của nơi truyền đạo là Long Hổ Sơn, và giáo phái này bước qua một giai đoạn lịch sử mới.

Thời Nguyên giáo phái này lại hưng thịnh trở lại, và mang tên là Chính Nhất Đạo, liên tục qua các triều đại, hậu duệ họ Trương luôn là giáo chủ giáo phái, đến tận năm 1949, Trương Ân Phổ giáo chủ đời 63, tự là Hạc Cầm tiên sinh di cư sang Đài Loan, và năm 1950 sáng lập Đạo giáo hội của Đài Loan. Năm 1957 ông thiết lập Đạo giáo cư sĩ hội và Đạo giáo đại pháp sư hội. Năm 1969, Trương Ân Phổ chết, Trương Uyên Tiên cháu họ Trương Ân Phổ lên chấp vị chưởng giáo năm 1971 do con trai của Trương Ân Phổ mất sớm. Năm 1992, ông này quay về Đại Lục và sáng lập Hiệp hội Thiên sư đạo Trung Quốc. Năm 2008, Thiên sư Trương Uyên Tiên lâm bệnh qua đời nhưng không có con trai kế thừa, nội bộ gia tộc họ Trương nổi lên sự tranh quyền kế vị Thiên sư. Tại Đài Loan có Trương Ý Tướng, Trương Mỹ Lương, Trương Ý Phượng, Trương Đạo Trinh. Tại đại lục có Trương Kim Đào, Trương Kế Vũ, Trương Quý Hoa. Ngày 10 tháng 6 năm 2009 (tức ngày 18 tháng 5 Âm lịch), nhân ngày Tổ sư Trương Đạo Lăng thọ đản, Trương Ý Tướng tổ chức lễ kế vị tại Đài Bắc xưng là Thiên sư đời thứ 65. Cùng lúc, Trương Đạo Trinh cũng tổ chức lễ kế vị, xưng Thiên sư đời 64 tại Nam Đầu. Cho đến nay, cục diện 2 vị Thiên sư cùng tồn tại vẫn diễn ra.

III. CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO GIÁO TỪ ĐỜI BẮC TỐNG TRỞ ĐI

Thời nhà Tống, thiên hạ loạn lạc, chiến tranh liên miên, nhiều bậc trí giả chán cảnh sinh linh đồ thán nên bỏ lên núi tu tiên, Đạo gia vì thế lại tiếp tục phát triển. Trong chính trị, các hoàng đế Tống độc tôn Nho học nhưng về mặt tinh thần thì phụ thuộc Đạo giáo, hầu như tất cả các vua Tống đều xuất gia tu đạo và đều có pháp hiệu như đạo sĩ (tất nhiên, chỉ là mặt hình thức).

Thật ra cũng có nguyên do sâu xa: Thời Nam – Bắc triều, có người phụ nữ lấy chồng, người chồng đi chiến chinh, một hôm loạn quân sắp kéo đến, bà vợ chỉ vội thu vén đồ đạc, đặt 2 đứa con trai lên hai cái sọt rồi quẩy đi bằng đòn gánh để chạy cho lẹ. Ngang qua núi Hi Di, có một người trung niên chạy ra đón bà vào nhà nghỉ ngơi, cho thức ăn nước uống rồi chỉ vào hai đứa trẻ mà bảo rằng: Lão đây vốn lên núi lánh đời, tránh xa trần thế, hôm nay đứng trên núi nhìn thấy hai công tử của phu nhân đây có hào quang rực rỡ bao quanh, chính là khí thiên tử vậy, phu nhân hãy nuôi dạy hai công tử cho tốt. Có lý nào cả 2 con tôi đều làm vua ? – Kiến nghiệp là anh nhưng giữ nghiệp là cậu em vậy. Và hai đứa trẻ ấy chính là Triệu Khuông Dẫn và Triệu Quang Nghĩa, hai ông vua đầu tiên của Đại Tống sau này. Ông già kia là Trần Đoàn, người khai sinh ra môn Tử vi đấu số.

Tuy nhiên vì môn tử vi đấu số của Trần Đoàn khá phức tạp và nặng về tính toán nên đời sau không thịnh, Càng khảo sát chi tiết về mặt thời gian thì càng đòi hỏi trình độ cao trong luận đoán. Dễ nhất là khán lá số ở mức độ nguyên thủy, tính cách nói chung, khó hơn là khán ở mức độ Đại Vận, và khó nữa là mức độ Lưu Niên. Một số nhà nghiên cứu tử vi có trình độ cao có thể phán chính xác đến tận hạn ngày, thậm chí chính xác tới hạn giờ tai nạn thông qua lá số tử vi. Ở Trung Quốc hiện nay không thịnh môn này, thay vào đó Hồng Công, Đài Loan và Việt Nam thì lại khá phát triển.

1/ Toàn Chân Đạo

Thành tiên là ước mơ cháy bỏng từ xưa của con người, cách thức cổ xưa nhất là đi tầm sư học đạo, tích lũy công lực rồi chờ đến ngày đến giờ phi thăng thành tiên. Nhưng sau khi bảng Phong Thần đóng lại thì hình như cõi trên đã hết “tiêu chuẩn”, nên những người tu phép tiên thì cứ tu, nhưng số người thành tiên được thì rất hiếm hoi. Đến đời Đường thì xuất hiện một dị nhân nổi tiếng, có thể coi là người tạo ảnh hưởng lên các hệ phái của Đạo Giáo sau này, ấy là Lữ Động Tân. Quá trình tu đạo, thành tiên của Lữ Động Tân thì dài dòng, kể ra chắc phải có riêng một bài, xin hẹn hôm khác. Nhưng rất nhiều bậc đạo sĩ về sau đều nói là có duyên gặp Lữ và được ông truyền cho bí kíp để tu đạo, từ đó khai sinh ra các tông phái mới, Toàn Chân Đạo là một trong số đó.

Vương Trung Phu sinh năm 1113 có tên tự là Duẫn Khanh, sinh ra tại Hàm Dương trong một gia đình giàu có. Thuở nhỏ ông chăm chỉ, tinh thông cả văn lẫn võ, nhờ vậy mà nổi tiếng gần xa. Khi người Kim xâm lấn, ông tụ họp nhân dân nổi dậy chống lại nhưng không thành công, sau đó ông chán chuyện thế sự nên bỏ nhà lên núi đi tu, nhưng tôi đồ rằng trốn nã thì có. Năm 1159, ông được gặp Lã Động Tân, được truyền thụ khẩu quyết luyện đan là Toàn Chân. Ý nói bảo toàn tam bảo (toàn tinh, toàn khí, toàn thần) hội tụ trung cung, kim đan thành tựu. Từ đó ông chuyên tâm nghiên cứu Đạo giáo, đổi tên là Triết, tự là Tri Minh, thành lập ra Toàn Chân giáo. Tôn chỉ của Toàn Chân giáo là cứu giúp chúng sinh nên nhân dân rất kính trọng. Học trò tìm đến ông rất đông, nhưng ông dạy dỗ nghiêm khắc, thường đánh đập và la mắng đệ tử nên chúng trốn sạch, sau cùng chỉ còn lại bảy người. Đó chính là Toàn Chân thất tử lừng danh trong Anh Hùng Xạ Điêu của Kim Dung. Trong thất tử toàn chân, người có thành tựu cao nhất, học được tinh túy nhất là Trường Xuân Chân Nhân, nhị đệ tử Khâu Xứ Cơ. Khâu Xứ Cơ từng được Thành Cát Tư Hãn mời đến để đàm đạo về bí kíp trường sinh và đạo an dân trị quốc, có điều đếu hiểu lão mũi trâu chỉ bảo cách nào mà sau chuyến đi ấy trở về cả TCTH lẫn ông đều … nghỉ thở cùng năm 1227. Sau khi ông chết, các đồ đệ của ông lập ra

Toàn Chân Long Môn phái, riêng phái Toàn Chân trái với suy nghĩ của đông đảo anh em chỉ xem kiếm hiệp mà ít chịu google, là cho rằng Toàn Chân bị bọn Mông Cổ tiêu diệt, cái này tôi chê vì mới vừa năm 2017 đây thôi, Toàn Chân Giáo Trung Hóa vừa kỷ niệm nhiệt liệt 850 năm ngày Vương Sư Tổ lập giáo truyền đạo với khoảng … 5000 tín đồ, diệt diệt cái con khỉ, nhé! – À quên, đường lối tu luyện của Toàn Chân là chú trọng luyện đan, sau này thì còn lại dưỡng sinh, nạp khí, không chú trọng phù chú pháp thuật.

2/ Mao Sơn Tông

Mao Sơn Tông là tên một giáo phái phổ biến của Đạo giáo, lấy Mao Sơn (núi cỏ mao), nằm ở giữa hai huyện Kim Đàn và Cú Dung của tỉnh Giang Tô, làm tổ đình. Mao Sơn có tên xưa là Cú Khúc Sơn, Địa Phế Sơn, Cương Sơn, Kỷ Sơn. Đây là ngọn núi thuộc hàng động thiên phúc địa nổi tiếng.

Đào Hoằng Cảnh là người đời Nam – Bắc triều vốn tính thông minh hiếu học từ nhỏ, lên 4 lên 5, đã bắt đầu lấy cọng lau làm bút vẽ trên tro; lên 10 đọc ‘Thần tiên truyện’ của Cát Hồng, chịu ảnh hưởng rất nhiều của ông này. Sau khi nhà Nam Tề thành lập, ông vào triều làm chúc Thị độc cho các vua, được vua quan ưa chuộng, là tổ sư đời thứ 9 của Thượng Thanh Phái (không chú trọng phù lục). Năm Vĩnh Minh thứ 10 (492), ông từ chúc về ở ẩn nơi núi Mao Sơn, chuyên lo luyện đơn và chú thuật, cặm cụi suốt 40 năm sáng lập ra Mao Sơn Tông (coi trọng phù lục), lại lấy tên núi làm tên giáo phái. Trong thời gian này, triều đình lần lượt mời ông ra làm quan, ông đều không nhận. Nhưng vì học vấn của ông uyên bác, mối quan hệ của ông với hoàng thất rất mật thiết, cho nên mỗi khi quốc gia có việc lớn đều đến hỏi ý kiến ông. Vì vậy người đương thời gọi ông là ‘Tể tướng ở trong núi’ (Sơn trung tể tướng). Ông học rộng, nhiều tài, ngoài việc tinh thông bản thảo, y thuật đều có nghiên cứu về thiên văn, lịch pháp, sơn xuyên, địa lý, họa đồ vật sản, luyện đơn, đúc kiếm, v.v... Ông lại còn giỏi cầm kỳ, khéo viết chữ thảo, chữ lệ, chế tạo được ‘hỗn thiên tượng’ (một loại máy để xem thiên văn). Ông một đời viết sách kể có 44 loại, sách về y dược có ‘Bản Thảo Kinh Tập Chú, ‘Ngoại Khuyết Trửu Hậu Bách Nhất Phương’, là một trong tứ đại thần y trong lịch sử Trung Hoa.

Mao Sơn được mọi người biết đến với uy danh đệ nhất khưu tà trừ ma, pháp thuật thần thông quản đại cao siêu và còn lập đàn, bố trận pháp. Mao Sơn phái có các đời tông sư rất nổi tiếng, qua nhiều thời, sáng tạo ra những pháp thuật xuất chúng, có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa đạo giáo Trung Hoa. Là một môn phái lớn với những pháp như: Hành thông linh pháp (đi xuyên âm giới), Thiên nhãn thông, Luyện thi, Thần phù ... Ngoài những pháp thuật kể trên Mao Sơn cón có những trận pháp vô cùng huyền diệu như: Cửu đăng liên hoa trận, Cửu tiền bôi đỉnh trận, Bát quái trận,... Cho đến nay Mao Sơn không cón phát triển rộng rãi như ngày xưa, do quá trình hiện đại hóa của xã hội, nhưng vẫn còn những người biết và tìm đến học đạo thuật Mao Sơn. Ngày nay Mao Sơn thuật được biết đến rộng rãi qua phim ảnh, tiểu thuyết, đặc biệt là loạt phim cương thi do Lâm Chánh Anh, cố diễn viên nổi tiếng chuyên vào vai đạo sĩ trừ tà hồi thập niên 80 – 90 của điện ảnh Hồng Kông.

Share:

 

CHO THUÊ NHÓM BÁN HÀNG GIÁ RẺ - TƯƠNG TÁC CAO🔥

 


CHO THUÊ NHÓM BÁN HÀNG GIÁ RẺ - TƯƠNG TÁC CAO🔥

 Hệ thống hơn 1000 nhóm tương tác cao
 Cho bán tất cả các loại mặt hàng: quần áo, giày dép, túi xanh, mỹ phẩm, đến thảo mộc dân tộc
 Tư vấn nhóm bán hàng với từng mặt hàng
🤳 Việc của bạn chỉ cần để lại CMT/INBOX còn lại cứ để chúng tôi lo
✍️ CAM KẾT
 Tự tin sẽ mang lại lượng khách hàng tiềm năng cực khủng cho bạn
 Giúp bạn tương tác tốt trong nhóm
 Đăng bài tỷ lệ hiển thị cao, duyệt bài tự động ko cần chờ.
Tiếp cận hơn 10 triệu thành viên mỗi ngày.
➡️ KHÔNG RA ĐƠN HOÀN 100% TIỀN THUÊ NHÓM.
-----------------

 Cung Cấp Fanpage/ group Bán Hàng & Xây Dựng Thương Hiệu 
👉 Chuyên cung cấp Fanpage 🕓bán hàng từ 5k -->100k Like 🔊🔊🔊
* Cam kết Fanpage 100% là like tự nhiên, tương tác tốt , hàng chính chủ (bao sang tên đổi chủ) . 💯💯
* Có nhiều dạng Fanpage như : Fanpage đã qua bán hàng , Giải trí , du lịch , ẩm thực , thể thao , mẹ và bé vv ... Rất rất nhiều dạng để bạn lựa chọn từ Fanpage tập trung chủ yếu là Nam - Cho đến fanpage nhiều nữ , độ tuổi từ 13-54 tuỳ vào mặt hàng bạn kinh doanh mà lựa chọn cho phù hợp.
👉 Khi mua Fanpage bên chúng tôi , anh chị sẽ được :
➡️ Hỗ trợ đổi tên Fanpage .
➡️ Xoá tất cả bài viết cũ ( nếu yêu cầu ) .
➡️ Có chế độ bảo hành Fanpage cực tốt .
Còn chần chờ gì nữa mà không inbox em chọn cho mình 1 Fanpage về chạy quảng cáo kinh doanh mặt hàng

🌈🌈Contact:https://www.facebook.com/chothuebanhang
https://www.facebook.com/groups/bandoivn/

Flag Counter

PHẦN MỀM CẮT VIDEO ONLINE

Cho Thuê Group Facebook

Tổng số lượt xem trang

Bài mới đăng

Cho Đặt Banner Quảng cáo

Ủng Hộ Chúng Tôi

Quốc Gia Truy Cập

Flag Counter

Liên hệ Nhà thơ Hoàng Huy

Tên

Email *

Thông báo *

Like Fanpage Phong Thủy để cập nhật các thủ thuật mới nhất mỗi ngày OK Để sau