Kiến thức và Kỹ năng kiếm tiền Online

Blog

Bài đăng nổi bật

Hướng dẫn 18 cách kiếm tiền trên TikTok đơn giản, nhanh chóng nhất (2)

  Hiện nay, có rất nhiều  cách kiếm tiền trên TikTok  và kiếm tiền bằng TikTok đang dần trở thành xu hướng của thời đại mới. Nếu bạn còn đan...

CHỈ CẦN CÓ TÀI KHOẢN GMAIL VÀ FACEBOOK, BẠN CÓ THỂ BÌNH LUẬN TRÊN BLOG CỦA TÔI

Bài xem nhiều

BÍ MẬT THÀNH TỰU PHÁP - VIÊN MÃN MỌI MONG NGUYỆN THẾ GIAN

 BÍ MẬT THÀNH TỰU PHÁP - VIÊN MÃN MỌI MONG NGUYỆN THẾ GIAN: 

Theo Đại sư. Hỏa Phượng Hoàng

Chúng ta vẫn thường hay nghe nói trì chú có vô lượng vô biên công đức, vô số lợi ích hữu dụng để cứu độ chúng ta trong cõi ta bà này như: trị bệnh, tiêu tai giải ách, bảo mệnh hộ thân cho đến cầu tài tăng ích, trường thọ phát triển lòng từ bi trí tuệ, giác ngộ,... âu đa số những người hành trì mật tông trong đời sống hiện tại cũng vẫn thường cầu nguyện thành tựu cho các mong nguyện thế gian. Những ước nguyện thế gian tuy chỉ là giả tạm, là phóng chiếu, song với chúng sinh thì đây vẫn là những điều rất cần thiết. Cũng như khi bạn đang mơ thì giấc mơ đó rất thật, chỉ khi tỉnh dậy nó mới biến mất và bạn mới biết là mình đang mơ. Những trải nghiệm sợ hãi, nguy hiểm, hạnh phúc, buồn đau đều rất thật, vậy nên đôi khi bạn tỉnh giấc trong tâm trạng rất vui hoặc ngược lại là trong nước mắt. 


Chừng nào bạn còn trôi lăn trong luân hồi, lẽ tất nhiên chư Phật sẽ trợ duyên để những tâm nguyện của bạn được viên mãn. Vì vậy, hôm nay Hỏa Phượng Hoàng sẽ chỉ dẫn 1 vài công thức hành trì thần chú để biến ước nguyện của bạn trở thành hiện thực. Việc của bạn là phải siêng năng hành trì mỗi ngày để có chánh tinh tấn, việc tinh tấn sẽ giúp bạn có định lực vững vàng để hiện thực hóa ước mơ. 


Con người ta khi hành trì thần chú nếu liên tục mỗi ngày không gián đoạn thì sau 21 ngày đã có thể hình thành trong ý thức như 1 thói quen, thường thì sau 100 ngày bạn hành trì liên tục và cầu nguyện 1 ước nguyện nào đó gửi thông điệp vào vũ trụ như vậy thì sẽ đủ năng lượng để biến điều ước đó thành hiện thực. Bài viết hôm nay tôi sẽ chỉ dẫn về việc đưa ước nguyện của bạn trực tiếp vào việc hành trì thần chú của 1 vài bổn tôn phổ truyền. Vị đầu tiên tôi muốn nhắc đến là về độ mẫu Tara. Chúng ta nên tìm hiểu trước về thệ nguyện của ngài. 


Đức Lục Độ Phật Mẫu đã phát thệ nguyện rằng: “Bất cứ ai, chỉ cần nghe được hồng danh của ta, nhớ tới hồng danh ta trong khi cầu nguyện, thực hành, thì sẽ được giải thoát khỏi mọi hiểm nguy, nguyện cho mọi mong nguyện thế gian và xuất thế gian đều được viên mãn”. Ngài đã cầu nguyện để viên mãn bản thệ đó, Ngài đã dành trọn sự thực hành để hồi hướng cho tâm nguyện đó. Ở đây tôi muốn nói đến thệ nguyện của ngài, đức Tara là bổn tôn của Kim Cang Thừa, không phải bổn tôn của Tịnh Độ, tuy nhiên khi tìm hiểu về các điển tích của ngài đều nói về việc nghe, nhớ đến hồng danh ngài và cầu nguyện giải thoát lên ngài thì sẽ được viên mãn mọi mong nguyện. Vậy ở đây, việc trì niệm hồng danh của Tara tuy không có trong truyền thống Kim Cang Thừa nhưng dựa vào thệ nguyện của ngài, ta có thể hành trì niệm danh hiệu ngài kết hợp với việc tán thán 21 độ mẫu và trì tụng thần chú để cầu nguyện sẽ dễ dàng được viên mãn y như bản thệ ngài đã phát nguyện. 


Về bài tán thán Tara, đạo sư của tôi từng dạy rằng: vì thệ nguyện của độ mẫu Tara chủ về hành động và viên mãn mọi mong cầu chúng sinh cho nên nếu bất kỳ ai trong 2 thời sáng từ khoảng 4h có thể đọc bài tán thán 21 độ mẫu 12 lần và trì chú của ngài, chiều từ 17h có thể hành trì 1 lượt 12 lần tán thán và trì chú của ngài rồi cầu nguyện 1 tâm nguyện nào đó thì sau 100 ngày liên tục cái năng lượng đó đủ mạnh để biến ước nguyện thành hiện thực, đạo sư còn đùa rằng thậm chí cái năng lượng đó đủ mạnh để các con cầu nguyện để giết chết 1 ai đó có lẽ ngài cũng sẽ làm. Nhưng tất nhiên, chúng ta có lòng từ bi sẽ không làm như thế. 


Về thần chú của ngài, chúng ta vẫn hay hành trì câu chú 10 chữ căn bản: 

Om ta rê tut ta rê tu rê sô ha 


Tôi sẽ chỉ dẫn cho các bạn 1 phương pháp đưa trực tiếp mong muốn của bạn vào thần chú để dẫn truyền viên mãn mọi mong cầu. 


Công thức như sau: 

Om ta rê tut ta rê tu rê ........ soa ha 


Ví dụ: 

1. om tare tut ta rê tu rê "diệt trừ oan gia và kẻ thù" soa ha

2. Om ta rê tut ta rê tu rê "tăng trưởng trí tuệ" soa ha

3. Om ta rê tut ta rê tu rê "giác ngộ tính không" soa ha

4. Om ta rê tut ta rê tu rê "diệt trừ phiền não" soa ha

5. Om ta rê tut ta rê tu rê "hãy ban cho con sự giàu có" soa ha 


Trên đây là 1 vài ví dụ cho công thức trên, bạn có thể thay chỗ "...." bằng tâm nguyện bạn mong muốn có được. Với công thức này, bạn có thể thành tựu các mong nguyện thế gian cho đến xuất thế gian.

Tất nhiên bạn sẽ phải hành trì ít nhất 10 chuỗi (tương đương 1080 lần) liên tục mỗi ngày. 100 ngày chỉ là với những mong nguyện thế gian khả năng có thể thực hiện được. Còn với những ước nguyện lớn hơn sẽ cần nhiều thời gian nhiều hơn để hoàn thành, phụ thuộc vào công đức của bạn có được bao nhiêu nữa, nên hành trì kết hợp chú "om mani padme hum" để tích tập công đức nhanh chóng, chú trăm âm để diệt trừ bớt đi nghiệp chướng đang cản trở làm chướng ngại cho bạn và kết hợp cùng công thức này để công đức bạn gieo trồng luôn tăng trưởng để biến ước nguyện bạn đang gieo trồng bằng thần chú tara sớm viên mãn thành hiện thực. Đây là cách để bạn gửi thông điệp cầu nguyện trực tiếp lên độ mẫu Tara vào mỗi câu thần chú thay vì phải hành trì xong nghi quỹ, trì tụng thần chú xong bạn mới cầu nguyện được 1 lần cho cả 1 lần hành trì. 


Về thời điểm thực hành pháp tùy vào mỗi mục đích mong nguyện khác nhau mà sẽ hành trì vào các giai đoạn của chu kỳ mặt trăng khác nhau trong tháng:

- Nếu sử dụng vào mục đích tức tai, bạn nên bắt đầu hành trì từ ngày m1 

- Nếu sử dụng vào mục đích tăng ích, bạn nên bắt đầu từ ngày m8, 

- Nếu sử dụng vào mục đích kính ái, bạn nên bắt đầu từ ngày 16, 

- Nếu sử dụng vào mục đích hàng phục, bạn nên bắt đầu từ ngày 23.

Bạn nên lập 1 bảng tính túc số mỗi ngày và sau mỗi lần hành trì sẽ ghi vào đó. Đủ 100 ngày từ ngày hành pháp trở đi, các tháng trở về sau bạn có thể hành trì theo các khoảng thời gian nhất định trong tháng để hành pháp duy trì năng lượng gia trì. Vd sau 100 ngày các pháp tức tai sẽ hành trì từ ngày m1- m8, các pháp tăng ích sẽ chỉ hành trì từ ngày m8- ngày 15 âm, các pháp kính ái sẽ hành trì từ ngày 16 - ngày 23 âm, các pháp hàng phục sẽ hành trì từ ngày 23 đến hết tháng (tùy mỗi tháng 29/30 ngày) 


Trong hình tướng của Tara, trên tay ngài luôn trì giữ nhánh hoa sen xanh - hoa utpala, loài hoa này chỉ nở vào ban đêm với ý nghĩa xua tan đi mọi sợ hãi trong màn đêm tăm tối. Tuy nhiên, loài hoa này nơi chúng ta không có. Vì vậy 1 cách cúng dường lên ngài với ý nghĩa về loài hoa này là bạn có thể mua nến hoa sen màu xanh tượng trưng và thắp sáng lên khi hành trì pháp của ngài, ánh sáng này có ý nghĩa giúp bạn xua tan đi sợ hãi chướng ngại vượt qua bóng tối như ý nghĩa của hoa utpala vậy.

Ngoài công thức trên, tôi có thể nêu ra 1 vài công thức do các đạo sư tây tạng truyền dạy lại. Các công thức này đều xuất khởi bắt nguồn từ câu thần chú gốc, chỉ khác về tiếng địa phương: của ng Tạng dùng tiếng Tạng, của ng Việt thì dùng tiếng Việt cho tâm thức dễ dàng thu nhận. 


1. Định thức thứ nhất: 


Om - Täre Tuttare Ture - Sarva...... śāntim Kuru - Svāhā

(Sarva có nghĩa là khiến cho...., santim kuru có ý nghĩa trừ tai nạn/chướng ngại - bảo mệnh hộ thân, chủ về phòng trừ)

Trừ Quỷ Thần: Om - Tare Tuttare Ture - Sarva grahān śāntim Kuru - Svāhā. 


Trừ chướng nạn: Om - Täre Tuttare Ture - Sarva vighnän śāntim Kuru - Svāhā. 


Trừ bệnh tật truyền nhiễm : Om – Täre Tuttāre Ture - Sarva vyādhīn śāntim Kuru - Svāhā. 


Trừ nhiệt bệnh: Om - Täre Tuttare Ture - Sarva jvarān śāntim Kuru Svāhā. 


Trừ bệnh hoạn: Om - Täre Tuttare Ture - Sarva rogān śāntim Kuru 


- Trừ phiền não: Om - Täre Tuttare Ture - Sarva upadravān śāntim Kuru - Svāhā. 


Svāhā. Trừ sự chết yểu phi thời: Om – Tăre Tuttare Ture - Sarva akāla-mrtyün śāntim Kuru - Svāhā. 


Trừ giấc mơ xấu: Om – Täre Tuttare Ture - Sarva duşvapanān śāntim Kuru - Svāhā. 


Trừ sự Bất Tường: Om – Tăre Tuttare Ture - Sarva durni mittāni śāntim Kuru - Svāhā. 


Trừ sự lầm lẫn: Om - Täre Tuttare Ture - Sarva cittā kulāni śāntim Kuru - Svāhā. 


2 Định thức thứ hai: 


Om - Tare Tuttare Ture - Sarva...........Rakşam Kuru - Svāhā

(Raksam kuru cũng có ý nghĩa là trừ tai nạn, tuy nhiên khác với santim kuru, raksam mang nghĩa về diệt trừ, hàng phục, ví dụ ai đang gặp nạn quan tư thị phi dùng cái này diệt trừ họa ách đập tan thị phi cũng được) 


Trừ oan gia và kẻ thù: Om – Täre Tuttare Ture - Sarva śatrübhyo Rakşam Kuru - Svāhā 


Trừ chất độc, các loại độc: Om Rakşam Kuru - Svāhā Täre Tuttare Ture - Sarva vişebhyo 


Trừ Chú Trớ Yểm Đảo: Om Täre Tuttare Ture Sarva krtyā-kākhordebhyo Rakşam Kuru - Svāhā 


Trừ binh trận: Om - Tare Tuttare Ture - Sarva yudhebhyo Rakşam Kuru - Svāhā 


Trừ sự phiền não tai nạn: Om Täre Tuttare Ture Sarva bhaya upadrvaebhyo Rakşam Kuru - Svāhā 


Trừ hành động xấu ác: Om Tare Tuttare Ture Sarva duşkrtebhyo Rakşam Kuru - Svāhā 


3 Định thức thứ ba: 


Om - Tare Tuttare Ture .......Svāhā.

(Định thức này có thể được sử dụng cho tất cả mục đích như tức tai, tăng ích, kính ái, hàng phục) 


Om - Täre Tuttare Ture - Sarva bhaya vimocana - Rāja, caura, Agni, Vişa, Udaka bhayāni praśamaya - Svāhā. 


(Om Tare Tuttāre Ture – Vượt thoát mọi sự sợ hãi, chận đứng, tiêu diệt sự sợ hãi 


về: vua chúa, trộm cướp, lửa, thuốc độc, nước - Svāhā) 


Om - Tare Tuttare Ture - Sarva bandhana - Tadana - Rāja, Taskara, Agni, Udaka, Vişa śastrāni parimocaka - Svāhā.

(Om Tāre Tuttāre Ture – Vượt thoát mọi sự trói buộc, sự đánh đập, vua chúa, trộm cướp, lửa, nước, thuốc độc, dao gậy - Svāhā) 


Om - Täre Tuttare Ture - Sarva pāpam Avaraņa viśuddhe - Svāhā. 

(Om Tāre Tuttāre Ture – Tinh lọc hoàn toàn mọi tội lỗi và chướng ngại – Svāhā) 


Om - Täre Tuttare Ture mama dhana sarva cora bandha Svāhā 

(Om Tare Tuttāre Ture _Cột trói tất cả giặc cướp của cải của tôi _ Svāhā) 


Om - Täre Tuttāre Ture Asmān apakāra sarva cora bandha Svāhā 

(Om Tāre Tuttāre Ture Cột trói tất cả trộm cướp, kẻ gây ra thiệt hại cho chúng tôi _ Svāhā) 


Om - Tare Tuttare Ture_Dhanam me Dehi - Svāhā 

(Om Tāre Tuttare Ture - Hãy ban cho tôi sự giàu có - Svāhā) 


4 Đình thức thứ tư: 


Om - Tare Tuttare Ture ...... Puşţim Kuru - Svāhā.

(Pustim kuru có ý nghĩa là sở cầu như ý, dùng vào các mục đích tăng ích, chiêu tài) 


Tăng trưởng Thọ Mệnh, Phước Đức, Trí Tuệ: Om – Tăre Tuttare Ture - Mama Ayuh punye jñāna Puşțim Kuru - Svāhā. (Câu này chính là của bổn tôn Tara trắng) 


Tăng trưởng năng lực Công Đức: Om – Tăre Tuttare Ture -punya Puşțim Kuru - Svāhā. 


Tăng trưởng Trí Tuệ: Om – Täre Tuttare Ture -Prajña Puşțim Kuru Svāhā. 


Tôn chỉ về pháp của Hoàng Thần Tài chính là: muốn được tài thì phải thí tài và xả tài, bỏ đi tâm keo kiệt ích kỷ của bản thân. Một phương pháp đơn giản để thực hành là bạn nên mua 1 hòm công đức nho nhỏ để bàn thờ ngài, mỗi lần hành trì bạn sẽ cúng dường lên ngài ít tiền, vd ban đầu là 2k, 3k, có điều kiện hơn thì bỏ 10k, 20k, 50k,... mỗi ngày như vậy tích tụ lại đến các ngày m1, 15 âm thì bạn lấy số tiền đã tích lũy được trong hòm công đức mua đồ phóng sinh (vd: lươn, ốc, ếch, cá,....) và hồi hướng cầu nguyện. Mỗi tháng thực hành phóng sinh 1-2 lần, có điều kiện thì nhiều hơn. Ngoài ra có thể dùng số tiền đó bố thí cho những người nghèo khổ, hoặc công đức các nơi đền chùa,.... Số tiền này chỉ dành vào việc thí tài, không nên lấy đó để dùng vào mục đích cá nhân. Dần dần bạn sẽ thấy tài lộc của bạn tăng trưởng, công việc thuận lợi. 

Về công thức thần chú của ngài có công thức như sau:

Om zam ba la za len đa yê......(mong nguyện) soa ha

Ví dụ:

1. Om zam ba la za len đa yê "giàu có thịnh vượng" soa ha

2. Om zam ba la za len đa yê "công việc thu nhập cao"soa ha

3. Om zam ba la za len đa yê "trúng số độc đắc" soa ha

4. Om zam ba la za len đa yê "thu nhập 100 triệu mỗi tháng" soa ha

Một công thức khác từng được một đạo hữu chia sẻ là : 

Om yak sa zam ba la za len đa yê mani......(mong nguyện) soa ha

(Yak sa nghĩa là Dạ xoa, ám chỉ ngài là vua của chúng Dạ Xoa, Mani là viên ngọc báu như ý)

Đã từng có 1 vài đạo hữu học theo công thức này để trúng số độc đắc, hành trì liên tục mới chỉ trong 2 tuần thì họ đã trúng số liên tục, tuy không phải số độc đắc nhưng cũng đã giúp họ gặp may mắn rất nhiều, huống chi là 100 ngày trở lên

Mỗi ngày hành trì 1080 thần chú. Sau 100 ngày sẽ thấy tài lộc, thu nhập của bạn được cải thiện rất nhiều. Tùy vào mong nguyện bạn đưa vào thần chú sẽ giúp bạn từng bước được thỏa mãn mong cầu đó. Tuy nhiên, đừng quên bố thí học cách xả tài, có vậy thì tài bảo bạn kiếm được mới bền vững và càng ngày càng sung túc đủ đầy. 


Tương tự như 2 bổn tôn trên, thần chú của Chuẩn Đề Phật Mẫu cũng sẽ giúp viên mãn mọi mong cầu với công thức sau:

Om cha lê chu lê chun đê..... soa ha

Đây là công thức chung cho các pháp về tức tai, tăng ích, kính ái, hàng phục. Ngoài ra các bạn có thể áp dụng như theo pháp của Tara: 


1. Tức Tai: 

OṂ_ CALE CULE CUṄDHE (Khiến cho…) ŚĀNTIṂ KURU _ SVĀHĀ 


2. Tăng ích:

OṂ_ CALE CULE CUṄDHE (Khiến cho….) PUṢṬIṂ KURU _ SVĀHĀ 


3. Kính ái:

OṂ_ CALE CULE CUṄDHE ( Khiến cho…. ) VAŚI KURU _ SVĀHĀ

(Vasi kuru là nhiếp triệu ai đó thành tựu mong cầu của mình, bạn có thể nhiếp triệu vị thần nào đó hoặc nhiếp tâm 1 người nào đó có duyên với bạn mà bạn muốn thu hút, như crush, người bạn thương hoặc có thể muốn thân thiết với 1 người nào đó như bạn bè, đồng nghiệp, cấp trên,....) 


4. Hàng phục:

OṂ_ CALE CULE CUṄDHE HŪṂ PHAṬ 


(Hum phat được dùng trong các câu chú về hàng phục, vd kẻ thù, oan gia,...tuy nhiên không nên sử dụng định thức này nếu chưa được thọ các pháp về phẫn nộ, giáng phục) 


Và tôi vẫn khuyên dùng câu chú căn bản để dễ truyền tải hơn thay vì sử dụng các định thức riêng biệt theo từng mục đích khác nhau. 


Nếu các bạn tìm hiểu về tự kỷ ám thị sẽ hiểu việc lặp đi lặp lại 1 ý muốn bất kỳ bằng lời nói mỗi ngày sẽ hấp thụ nó xuống dưới phần tiềm thức và khiến tiềm thức hoạt động, 1 khi tiềm thức hoạt động thì tần số năng lượng sẽ được nâng cao để đạt được điều tương đồng đúng với ý muốn bạn phát ra, giống như bạn truyền tải thông điệp vào vũ trụ và đón nhận lại sự phản hồi của vũ trụ trở ngược lại bạn. Thì sự vận hành của các thần chú cũng vậy, tuy nhiên ở đây chúng ta không chỉ có sự giúp sức của vũ trụ mà còn có cả tha lực của chư Phật hỗ trợ giúp bạn đạt được điều bạn muốn, thần chú ấy được thuyết ra từ tâm của chư Phật sẽ càng mạnh mẽ hơn vì nó mang theo cả những hạnh nguyện thành tựu của các ngài. Não bộ chúng ta là tổng thể không gian đa chiều, để từng bước mở ra các chiều không gian này thì ý thức của chúng ta phải được học và tiếp thu đầy đủ tri thức để đủ năng lực mở khóa từng chiều không gian trong tiềm thức. Thậm chí tiềm thức nó hiểu được tất cả các loại ngôn ngữ dù ý thức của bạn không hề được học. Đó cũng là 1 bí mật về việc tạo lập và hình thành các hóa thân...nếu bạn nắm giữ được các chìa khóa này, bạn sẽ có khả năng tu luyện để trở thành các hóa thân Phật, tự thân bạn sẽ có gia trì của chư Phật, bạn có thể trở thành hóa thân của Tara, Quan Âm,... hay bất kỳ vị nào bạn tôn thờ.. Tôi đang trong quá trình nghiên cứu thử nghiệm về loại công thức mới để khai mở các chiều không gian này, bạn của tôi đã từng có người áp dụng và tự thân họ có phép thuật, họ không thực hành tu luyện phép thuật ngày nào nhưng nhờ phương pháp này họ biết dịch chuyển tức thời ngay trong 1 khoảnh khắc, vì đang trong quá trình thử nghiệm nên tôi sẽ không công khai. Viết đến đây có lẽ dài rồi, chúc các bạn ngày mới vui vẻ, cám ơn đã quan tâm theo dõi.


Share:

KHÔNG HÀNH MẪU (DAKINI) VÀ PHÁP SONG TU

 

Dakini là gì ?

Trong các pháp tu của Mật tông Kim Cương Thừa các vị sư có một pháp môn đặc biệt gọi là nam nữ song tu. Một hành giả nam sẽ chọn một người phối ngẫu nữ (consort) để cùng nhau tu tập. Người nữ tiếng Phạn gọi là Dakini phiên dịch ra âm Hán là Đồ kiết ni 荼吉尼 dịch nghĩa là Không hành nữ 空行女 hoặc Không hành mẫu 空行母 Người phương tây dựa vào những hình vẽ mô tả những người nữ này, thường là khỏa thân và bay bướm có khi bay trên trời mà gọi là Flying dakini ý nói người nữ bay trong không gian. Có thể có dakini đã chứng quả A La Hán có thể bay lên không trung.

Không hành nữ là người nữ giúp đạt tới tánh không bằng biểu tượng thăng hoa bay trên không trung   

Ý nghĩa đích thực của Dakini Không hành nữ là người phối ngẫu nữ song tu với hành giả nam để cùng đạt tới nhận thức tánh không. Không 空 là tánh không chứ không phải là không trung.

Dakini có mười hạng trong đó 7 hạng đầu thuộc dakini thiện còn 3 hạng sau thuộc dakini ác.

Bậc cao nhất là Jnana Dakini (Trí đồ kiết ni 智荼吉尼) nàng có lòng từ bi, nếp sống thanh tịnh, giữ gìn giới đức, nước da trắng hồng, rất khêu gợi bởi các đường cong rõ nét. Người thường không tu tập giao hợp với nàng sinh ra con cái xinh đẹp nhiều hạnh phúc. Đức Bà Yeshe Tsogyal là một dakini bậc này.

Mật tông Kim Cương Thừa Tây Tạng có một phương pháp tu hành cần tới người phối ngẫu là các dakini như nói trên.

Jnana dakini là không hành mẫu bậc nhất trong 10 hạng dakini

Bậc thứ năm là Padma Dakini (Liên hoa đồ kiết ni 蓮花荼吉尼) nàng có da màu hồng sáng sạch, thân thể trơn mịn, thân hình nhỏ gọn, bụng thon, mông rộng. Rất dâm dục và nói hơi nhiều. Người thường không tu tập, giao hợp với nàng sẽ sanh ra nhiều con trai. 

Padma dakini là bậc thứ 5 trong 10 hạng dakini

Bậc thứ bảy trong dakini thiện là Loka Dakini (Thế gian đồ kiết ni 世間荼吉尼) nàng có khuôn mặt trắng và rạng rỡ, thường nở nụ cười, là đứa con hiếu thảo với cha mẹ, tròn bổn phận với bạn bè. Nàng là người có thể tin cẩn được và tiêu xài rộng rãi. Người thường không tu tập, giao hợp với nàng chắc chắn có con nối dòng, tạo ra lắm thức ăn và sự giàu sang.

Loka dakini

Hình ảnh dakini ngày xưa và dakini ngày nay bái sư để học pháp :

Dakini ngày xưa bái sư học pháp

Padma dakini (eo thon, mông to) ngày nay bái sư học pháp

Do lai của pháp tu

Nguồn gốc của pháp tu là sự mô phỏng chống lại các loại ái dục mà Đức Phật đã trải qua trong 49 ngày thiền định dưới cội Bồ Đề và cuối cùng giác ngộ giải thoát. Các ma vương nữ vây quanh ngài trong trạng thái khỏa thân đầy lôi cuốn, quyến rũ ngài vào đường tà. Có bức vẽ hiển thị tình huống này.

Đạo sư Mật tông bị các ma nữ quấy rối giống như thời kỳ Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội bồ đề

Các đạo sư Mật tông thực hành phép tu vượt qua cửa ải ái dục bằng 2 phương pháp :

Karmamudrā (tiếng Phạn, Hán dịch là Sự nghiệp thủ ấn song thân pháp tu hành 事業手印雙身法修行pháp môn này phổ biến ở Tây Tạng, hành giả gọi là Las-kyi phyag-rgya Lạt ma pháp sư 喇嘛法師) là một kỹ thuật Phật giáo Kim Cương thừa về sự kết hợp thực hành với một người phối ngẫu thực tế hoặc chỉ là hình ảnh tưởng tượng gọi là Jnanamudra Hándịch là Trí huệ thủ ấn 智慧手印. Hành giả có thể thực hành cái gọi là yoga tính dục với một người phối ngẫu hoặc chỉ là tưởng  tượng suông không có người phối ngẫu (Jnanamudra). Nhận thức được bản chất thực sự là tánh không của ái dục trong tất cả các hình thức này biến niềm đam mê thông thường thành nền tảng cho trải nghiệm về đại lạc (大樂 maha sukha ), điều này giúp thúc đẩy nhanh chóng việc loại bỏ những chướng ngại về cảm xúc và tinh thần (dục lạc) trong thực hành của một người, thực hiện sự hợp nhất từ thể xác cho đến ý thức.

Đây là một vấn đề rất quan trọng, trong lúc giao cấu, hành giả phải đạt tới trạng thái tâm lý Ngũ uẩn giai không. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đều là không. Số lượng cũng là không, hai thể xác, hai tâm hồn hòa làm một, cảnh giới không gian cũng là không, thời gian cũng là không. Trạng thái tinh thần đó lặp đi lặp lại mỗi lần giao hoan, đó là sự tu luyện để đạt tới tánh không của pháp giới.

Sự hành dâm giữa đạo sư và người phối ngẫu trở thành là một pháp tu, một phương tiện để đi đến kiến tánh, giác ngộ. Trong Pháp Bảo Đàn Kinh 法宝坛经 của Lục Tổ 六祖  tánh dâm này được mô tả là hạt nhân của thanh tịnh.

淫性本是淨性因 Dâm tánh bản thị tịnh tánh nhân Tánh dâm vốn là nhân của sự thanh tịnh

除淫即是淨性身 Trừ dâm tức thị tịnh tánh thân     Trừ dâm tức làm cho thân thành tánh thanh tịnh  

性中各自離五欲 Tánh trung các tự ly ngũ dục        Trong tánh (dâm thanh tịnh) này mỗi người tự rời bỏ ngũ dục [ngũ dục là tài (tài sản, tiền bạc), sắc (vật chất, sắc đẹp), danh (tiếng tăm), thực (ăn uống), thụy (mê ngủ) 

見性剎那即是真 Kiến tánh sát na tức thị chân. Thấy tánh thì trong sát-na tất cả đều là chân

Cặp nhũ hoa, cái âm hộ, dương vật, tinh khí, hành vi giao cấu, tất cả chỉ là hình tướng huyễn ảo của Phật tánh, tánh không chân như thanh tịnh, không khác gì tượng Phật, Bồ Tát. Tất cả hình tướng đều là không thật, đều là do tâm tạo, không thật sự có đặc trưng đặc điểm (Bát Nhã Tâm Kinh : bất cấu bất tịnh, ngũ uẩn giai không- không dơ không sạch, 5 tập hợp sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là không)  

Dâm, người đời cho là nhơ nhớp, ô uế. Đó chỉ là điên đảo mộng tưởng phân biệt mê muội. Phật pháp nói rằng Nhất thiết pháp vô tự tính. Tất cả các pháp đều không tự có đặc điểm, đặc tính, đặc trưng gì cả. Vậy thì dâm cũng là thanh tịnh như lễ phật, ăn cơm, mặc áo, nghỉ ngơi, không có gì khác cả. Cái cảm tưởng, cảm giác khác, cho là ô uế không thanh tịnh là do tâm tạo, tâm tưởng tượng, chứ nó không có sẵn bản chất hay đặc tính như vậy.

Mật tông Kim Cương thừa dùng hành vi dâm (giao cấu) để luyện tập, nhận ra tánh thanh tịnh của nó (kiến tánh), tánh đó cũng chính là Phật tánh, vô phân biệt, chân thật bất nhị.    

Hành giả có thể tượng tượng ra người phối ngẫu (jnanamudra) hoặc có người phối ngẫu thật (karmamudra)

Nhân vật lịch sử

Trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng, đạo sư Guru Rinpoche (Liên Hoa Sinh 蓮華生 Padmasambhava, không biết rõ năm sinh năm mất, chỉ biết ông từ Ấn Độ đến Tây Tạng dưới triều đại Trisong Detsen, 742 đến 797CN ) và người phối ngẫu của ông Yeshe Tsogyal (757-817CN) là những nhân vật nổi tiếng nhất trong phép tu này.

Guru Rinpoche (Padmasambhava, Liên Hoa Sinh)

Yeshe Tsogyal (Y Hỉ Thố Gia)

Đức Bà Yeshe Tsogyal là một Dakini nổi tiếng, được sùng bái và được xếp vào bậc cao nhất là Jnana Dakini (Trí đồ kiết ni 智荼吉尼)

Có một số hình ảnh giao hoan tu tập giữa hai vị này được vẽ và lưu truyền

Padmasambhava (Liên Hoa Sinh, Guru Rinpoche) và Yeshe Tsogyal mantra (1)

Padmasambhava (Liên Hoa Sinh, Guru Rinpoche) và Yeshe Tsogyal mantra (2 blue)

Những hành giả không có người phối ngẫu phải tưởng tượng hình dung ra đối tác phối ngẫu (consort)  gọi là Mantra (咒語 chú ngữ) mà nhiều hành giả sử dụng.

Có những mantra người ta vẽ thể hiện rõ cả bộ phận sinh dục nữ vì bộ phận đó là vật trung tâm của phép tu nên được chú trọng gọi là mantra dakini.

Dakini khỏa thân chính diện (1)

Dakini khỏa thân chính diện (2)

Có những mantra diễn tả các tư thế giao hợp cho dễ hình dung bởi vì nhiều hành giả không có người phối ngẫu.

Các tư thế mantra

Mục đích của phép tu này là đạt tới vô sở trụ bằng dâm căn của thân tức là bằng linga (dương vật) và yoni (âm hộ). Vô sở trụ tức là Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm. Nhận ra chân tâm hay Phật tánh mới đích thực là mình. Tại sao phải cần hai người ? Hai người là số nhiều, có số lượng, họ phải phá bỏ số lượng bằng cách hợp nhất (bất nhị). Họ phải phá bỏ cảnh giới (không gian, hoàn cảnh, trang nghiêm và ô trọc không còn phân biệt), họ phải phá bỏ thời gian (đốn ngộ).  Hai thể xác hợp nhất, dương vật và âm hộ lồng vào nhau thành một, tinh dịch của nam và tinh khí của nữ hòa trộn vào nhau, hai tâm hồn cũng hòa nhập vào nhau không còn ranh giới.

Đạt tới cảnh giới bất nhị, vô sở trụ , tánh không, tâm như hư không vô sở hữu mới chính là cứu cánh của phép tu đặc biệt này.   

Đa số mantra diễn tả sự giao hợp trong tư thế ngồi thiền.

Tiêu biểu là mantra của Guru Rinpoche và Yeshe Tsogyal

Mantra này diễn tả sự giao hợp giữa Đạo sư Guru Rinpoche mà Hán dịch là Liên Hoa Sinh 蓮花生 và Đức Bà Yeshe Tsogyal Hán dịch là Y Hỉ Thố Gia 伊喜措嘉 hoặc Ích Tây Thố Kiệt 益西措杰 trong tư thế ngồi thiền. Bà là Jnana dakini nước da màu hồng sáng là dakini đệ nhất. 

Tóm lại phép tu đặc biệt này dùng dâm căn để nhận ra tánh thanh tịnh vô nhiễm vô phân biệt để đi đến kiến tánh. Các hành giả tu tập vô phân biệt trí nhận chân bản thể thanh tịnh của những bộ phận cơ thể hoặc hành vi mà người đời có thói quen coi là ô trược đáng xấu hổ, nhưng các nam nữ hành giả này ứng dụng Bát Nhã Tâm Kinh (bất cấu bất tịnh- không dơ không sạch) xem là bình thường và có thể phô bày thành mantra để các hành giả khác hình dung.

Nếu Bồ Tát Quán Thế Âm tu theo pháp môn nhĩ căn viên thông dùng tai nghe để quán thông cả lục căn thì Đạo sư Liên Hoa Sinh và Không hành mẫu Y Hỉ Thố Gia tu theo pháp môn thân căn viên thông với bộ phận sinh dục nam là linga (dương vật) và bộ phận sinh dục nữ là yoni (âm hộ) để quán thông lục căn đạt tới kiến tánh. Tại sao dùng linga và yoni để tu luyện vì đây là bộ phận trung tâm của nam và nữ hàm chứa rất nhiều năng lượng. Chế phục được thân căn này thì sự tu tập rất mau tiến bộ đến giác ngộ. 

Nếu bên giáo môn dạy phải giải trừ sắc dục thì bên mật tông lại dùng sắc dục như một phương tiện thiện xảo để đi đến giác ngộ giải thoát. Tuy nhiên để có thể dĩ độc trị độc hành giả cũng phải đạt được một trình độ nhất định trên đường tu, nếu không thì rất dễ sa ngã rơi vào tà đạo.

Không phải chỉ có ở Tây Tạng mới có pháp song tu. Ở Nhật Bản một thiền sư nổi tiếng, giác ngộ, cũng có cách hành xử khác thường tương tự như Karmamudra Mật tông Tây Tạng.  

Thiền sư Ikkyu Sojun ở Nhật Bản (1)

Thiền sư Ikkyu Sojun ở Nhật Bản (2)  

Ở TQ cũng có những trường hợp tương tự. Bậc giác ngộ không còn phân biệt hình tướng.

Trong triều đại nhà Tống có nhà sư, được coi là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù, đó là nhà sư nổi tiếng Giới Đồ Lê 戒阇黎 quê ở Lâm Hải, Thai Châu 台州临海 thời Nam Tống (1127–1279). Trước khi xuất gia Giới Đồ Lê họ Lâu, cha là Lâu Nguyên Hựu 娄原佑, nổi tiếng là người tốt trong vùng. Cả đời ông Lâu Nguyên Hựu làm từ thiện, thích trai tăng (làm tiệc chay đãi các vị tăng) chỉ tiếc là vợ chồng ông sau nhiều năm chung sống vẫn chưa có con. Ông đã cầu khấn và bà vợ có lần chiêm bao thấy ôm vầng trăng vào lòng, sau đó có mang sinh được con trai đặt tên là Đốn Cát 顿吉. 

Đứa trẻ này ngay khi mới sinh ra đã biết nói: “Lành thay cha mẹ, đã cưu mang sinh ra tôi, đã cứu giúp nhiều người, là dị nhân hiếm có trên đời.” Sự kiện này khiến vợ chồng ông Lâu vừa mừng vừa lo, mừng là đứa trẻ vừa sinh ra đã biết nói, nhưng họ lại lo xuất thân phi phàm của nó,họ lo lắng là bốn câu này mang đầy ý nghĩa Phật giáo, sợ rằng con sớm muộn cũng bỏ cha mẹ theo đạo Phật tu hành.

Quả vậy đứa trẻ về sau trở thành nhà sư lỗi lạc Giới Đồ Lê. Nhưng ông ta không tuân theo các quy tắc như các nhà sư bình thường, trái lại, ông ta không bao giờ tuân thủ giới luật, ông ta không ăn chay mà hay ăn đầu heo và uống rượu ngon. Ông được người ta gọi là “Nhà sư đầu lợn” (Trư đầu hòa thượng 猪头和尚). Giới Đồ Lê không hề khó chịu khi nghe tai tiếng này mà còn bật cười khoái trá.

Nhà sư ăn thịt uống rượu cũng chưa đủ kinh dị, càng bại hoại tăng đoàn hơn chính là việc Giới Đồ Lê không sợ thiên hạ dị nghị, thu nữ đệ tử, và hai người thường đi chung, ở chung với nhau. Nữ đệ tử này tên là Chu thất nương 周七娘, và lai lịch của cô ấy cũng khá phi thường. Cô sinh ra trong một gia đình thuần thành Phật giáo, cô từ nhỏ đã thông minh đĩnh ngộ tuyệt vời, nhưng cô phát nguyện khi lớn lên sẽ không lấy chồng, hàng ngày đi xin ăn trên đường phố và hát nhạc Phật giáo. Mọi người đều nghĩ chắc cô ấy bị điên, nhưng Giới Đồ Lê lại rất ngưỡng mộ cô và thu nhận cô làm đệ tử.

Giới Đồ Lê và Chu Thất nương

Một lần, Giới Đồ Lê và Chu Thất nương ra ngoài phố và ăn một bữa no nê món tôm luộc tại một quán ăn trên phố, khi họ lấy tiền ra trả thì thấy ví không có tiền, chủ quán rất tức giận và không cho họ đi. Nhưng rồi, Giới Đồ Lê cười nói: “Không có tiền, nhưng thí chủ muốn vật gì?” Chủ quán nói: “Ta muốn ngươi bồi hoàn tôm sống cho ta!”

Giới Đồ Lê và Chu Thất nương nhìn nhau cười, xong họ ngồi xuống, và không ngừng phun ra từ miệng những con tôm còn sống tươi rói, chủ quán và những người xung quanh sợ hãi, đồng loạt quỳ xuống và kêu lên “Thần tiên ! Thần tiên !”. Giới Đồ Lê cười nói, “Bây giờ tôi đã trả lại tôm sống cho ông rồi đó.” Sau đó, ông và nữ đồ đệ vừa đi vừa hát mà không nhìn lại.

Khi Giới Đồ Lê viên tịch, những người khác đã báo tin này cho Chu Thất nương, nữ đệ tử biết tin không buồn chút nào, ngược lại, cô ấy vừa hát vừa cười. Hát xong, cô an tọa dưới dạ cầu Phổ Tế mà tịch luôn.

Sau đó có một nhà sư lạ mặt xuất hiện trên đường phố Thai Châu và hát lớn: “Sư phụ Giới, Văn Thù, Chu bà, Phổ Hiền.” Bấy giờ mọi người mới hiểu ra họ chính là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát hóa thân giáo hóa người đời, dạy mọi người về vô phân biệt trí.

Họ giáo huấn điều gì ? Họ muốn hiển thị cho mọi người hiểu rằng đừng có chấp tướng, đừng có chấp thật, các pháp chỉ là vọng tưởng thôi, không có thực chất, bởi vì Nhất thiết pháp vô tự tính 一切法無自性 nghĩa là Tất cả các pháp đều không có đặc điểm, đặc trưng, tính chất riêng. Mọi đặc điểm của các pháp đều là do tâm tạo.


Share:

Mười bốn đại giới căn bản của Mật giáo

 


Mở đầu: Thứ tự của giới luật và hỏi đáp

Bởi có người hỏi về vấn đề thứ tự của giới luật, cho nên hôm nay chúng ta sẽ nói một cách đơn giản về giới. Đương nhiên giới luật của Phật giáo lấy Ngũ giới làm cơ sở, chúng ta đều biết Ngũ giới chính là sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu. Ngũ giới chính là giới luật căn bản nhất của Phật giáo, thật ra giới luật của bản thân Tiểu thừa cũng lấy Ngũ giới làm chủ yếu nhất.

Sau khi có giới của Tiểu thừa rồi thì tiến vào giới Đại thừa. Thật ra giới Bồ Tát nên là cao nhất, trong đó bao gồm giới Lục độ. Cái gọi là giới Lục độ chính là Lục độ mà bình thường chúng ta vẫn nói, tức là phải làm công tác lục độ, liên tục cho đến khi đạt đến Lục độ vạn hành. Lục độ vạn hành tức tương đương với Bồ Tát Đại thừa.

Tiến vào bên trong Mật giáo thì phải giữ “Sự sư pháp ngũ thập tụng” [50 quy tắc ứng xử giữa thầy trò]. Thật ra “Sự sư pháp ngũ thập tụng” trong Mật giáo gọi là Sự giới… tức là làm sao để thừa sự Thượng sư, làm sao để thừa sự Phật Bồ Tát, cái này thuộc về Sự pháp. Tiến thêm một bước nữa chính là 14 đại giới của Mật giáo, là thuộc về Hành bộ. Các giới này đặc biệt nói rằng ngoài phụng sự Phật, phụng sự thầy ra thì còn phải tu hành ra sao, làm thế nào đối diện với việc tu hành, vì thế gọi là Hành bộ. Cho nên 14 đại giới căn bản này cũng thuộc về giới luật của Hành bộ.

Đệ tử quy y của Chân Phật Tông nhất định phải giữ năm giới, đây là giới mà mọi hành giả Phật giáo đều phải giữ. Sau khi có được căn bản của năm giới rồi, tự mình muốn nhận thêm Bát quan trai giới hoặc Bồ Tát giới thì đó là chính bản thân bạn phát tâm Bồ Tát Đại thừa. Còn như tông phái chúng ta thuộc về Mật giáo, đầu tiên nên giữ hai giới, một là giới Sự bộ, tức là “Sự sư pháp ngũ thập tụng”, tức là làm thế nào để thừa sự thầy; tiếp đó là 14 đại giới Mật giáo, thuộc về giới Hành bộ, đây là giới thứ hai căn bản nhất của Mật giáo.

(Trích từ chương 012 - Thứ tự của giới luật, cuốn 667 “Chân Phật Tông Giới Luật Mật Thừa”.)

🌟

Hỏi: Cái gì là giới luật? Đáp: “Đại Thừa Nghĩa Chương” có viết: ”Gọi là sila, cái tên gọi này rất thanh mát, cũng gọi là giới. Tam nghiệp như lửa cháy thiêu đốt con người, các sự việc giống như lửa cháy, giới có thể phòng ngừa và ngăn chặn, vì thế mới nói là thanh mát, cái tên thanh mát, cũng có nghĩa là che lại, có thể phòng và chặn, do vậy gọi là giới.”

Giới luật chính là phòng ngừa và ngăn chặn tín đồ Phật giáo đi vào con đường sai trái tà ác.

Hỏi: Công dụng của giới luật là gì? Đáp: Trước tiên chúng ta hãy hiểu bốn tướng của giới luật: Giới pháp — Là luật pháp mà Như Lai đã chế định ra. Giới thể — lĩnh nạp giới pháp vào tâm, sinh ra công đức phòng tránh cái sai và ngăn chặn cái ác. Giới hành — cùng với giới thể mà hành động và làm việc như pháp gọi là giới hành. Giới tướng — sự khác biệt giữa hành vi cử chỉ, giới có năm giới, mười giới, thậm chí hai trăm năm mươi giới.

Từ đây, chúng ta có thể hiểu: công dụng của giới luật chính là công đức phòng tránh cái sai và ngăn chặn cái ác.

Liên Sinh Thánh Tôn cho rằng có ba công dụng: 1. Tránh xa mọi phi pháp tà ác. 2. Thu hút và tích lũy thiện phúc, chứng ngộ Như Lai. 3. Lợi lạc tất cả hữu tình.

Hỏi: Ba thứ giới-định-huệ có liên hệ thế nào? Đáp: Phòng và chặn ác là giới, ngừng nghĩ tịnh duyên là định, phá ác chứng chân là huệ. Từ giới mới sản sinh định, từ định mới sản sinh huệ. Đây chính là nhất giới, nhị định, tam huệ, tứ giải thoát, ngũ giải thoát tri kiến, đây là năm phần pháp thân.

(Trích từ chương 06 - Nghi quỹ giới luật, cuốn số 81 “Chân Phật Nghi Quỹ Kinh”.)

🌟

Hỏi: Chân Phật Tông là Mật thừa, Mật thừa lại có giới luật gì? Đáp: Mật thừa tổng cộng có 14 điều giới luật căn bản, bất kì điều nào cũng đều có thể phá hủy mối quan hệ thần thánh giữa hành giả Chân Phật và Liên Sinh Thánh Tôn, có nghĩa là khiến cho hành giả quy y quán đảnh chỉ có được hình thức quy y quán đảnh mà không có được lực gia trì của Thượng sư và Bổn tôn.

Hỏi: Giới luật học cũng là một môn học lớn, trong đó còn có quy tắc gì không? Đáp: Trong Phật môn có rất nhiều giới luật, đương nhiên cũng có rất nhiều quy tắc không nằm trong giới luật, đó là một dạng quy tắc được cùng quy ước khi tu học một tông phái, những quy tắc này được biến đổi từ đạo đức của giới mà ra.

Đệ tử Chân Phật Tông chúng ta cùng giữ các quy tắc này, như vậy quy tắc mới có thể trở thành tiêu chuẩn, hình thành nên một tông phái hoàn mỹ, một đoàn thể hoàn mỹ. Như vậy mới là: Nghiêm túc. Kính cẩn. Như pháp.

01. Giới thiệu vắn tắt về Liên Sinh Hoạt Phật

Người sáng lập Chân Phật Tông - Giới thiệu vắn tắt về Liên Sinh Hoạt Phật.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn thực tu dựa theo thứ tự Chân Phật Mật Pháp mà đạt được tức thân thành Phật. Bởi vì đã đích thân chứng thành tựu Phật quốc Tây phương Cực Lạc thế giới Ma Ha Song Liên Trì, do vậy ngài đã phát lời nguyện to lớn, thề nguyện phân thân xả cốt độ chúng sinh. Ngài là một trong những đại thành tựu giả của Mật giáo đương đại.

Trong hành trình tu hành hơn 30 năm của mình [tính đến thời điểm năm 2024 là hơn 50 năm], Liên Sinh Hoạt Phật đã chỉnh lý và dung hợp những Mật pháp tu hành rất sâu thành những nghi quỹ Chân Phật Mật Pháp thuận lợi đáp ứng thời đại, thích hợp với người tu hành hiện đại. Cho đến năm 2024, ngài đã xuất bản số lượng khổng lồ với 300 cuốn sách Phật học để hoằng dương Phật pháp, dẫn độ những người hữu duyên.

Hiện tại đã có hơn 5 triệu người quy y [tính đến năm 2024, số đệ tử quy y Chân Phật Tông đã vượt xa 5 triệu, nhưng trong các văn bản suốt vài chục năm vẫn luôn ghi con số 5 triệu, có tính tượng trưng, với ý nghĩa là rất nhiều], phân bố ở khắp nơi trên thế giới, đã thành lập hơn 400 trung tâm hoằng pháp ở nhiều nơi. Rất nhiều Hoạt Phật Tây Tạng và đại pháp sư Hiển giáo cũng đều quy y dưới Phật môn của Liên Sinh Hoạt Phật, tu trì Chân Phật Mật Pháp.

Chân Phật Tông lấy việc hoằng dương Chân Phật Mật Pháp, chỉ dẫn chúng sinh y pháp tu hành, thực tu theo thứ tự từ Tứ gia hành, Thượng sư tương ứng, Bổn tôn pháp, Bảo bình khí, chuyết hỏa, thông trung mạch, mở ngũ luân, ngũ kim cương pháp, Vô thượng mật, Đại viên mãn mà đạt đến tôn chỉ “minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử”.

02. Ngũ giới

Ngũ giới:

1. Không sát sinh — từ tâm thương vật, không giết sinh vật. Càng tích cực phóng sinh.

2. Không uống rượu — không uống rượu ở đây là chỉ không say rượu, không vì rượu mà loạn nhân tính.

3. Không tà dâm — quan hệ tình dục ngoài vợ chồng chính là tà dâm.

4. Không hai lưỡi — không đâm bị thóc chọc bị gạo, phạm khẩu nghiệp, phỉ báng chính nhân chính pháp đều là phạm vào nghiệp này.

5. Không trộm cắp — không phải đồ của mình không được trộm cắp.

03. Giải thích Ngũ giới

Đệ tử Chân Phật Tông hiện tại đã có hơn một trăm nghìn người trên khắp thế giới, đệ tử quy y đến từ nhiều nước khác nhau, con số này tôi có được từ số lượng chứng thư quy y. [Con số 100.000 là tính tới thời điểm Sư Tôn thuyết giảng 14 giới luật này vài chục năm trước.] Mỗi ngày đều có người quy y, đích thân đến Mỹ nhận quán đảnh quy y, hoặc viết thư thỉnh cầu quán đảnh quy y từ xa. Tôi tin rằng trong vòng vài năm ngắn ngủi, con số này chắc chắn sẽ nhân lên gấp mười lần trăm lần.

Rất nhiều đệ tử Chân Phật Tông sau khi quy y hỏi tôi rằng Chân Phật Tông phải giữ giới luật gì? Trên chứng thư quy giới chúng tôi viết như thế này: “Từ đây hãy theo ý chỉ của Phật. Nhất tâm quy y Phật môn. Nhận lễ minh sư. Quy y Liên Sinh Pháp Vương. Nguyện cho đến hết thọ mạng phụng sự ý chỉ của Phật và hành thiện. Nguyện cho đến hết thọ mạng phụng sự pháp và giữ giới. Nguyện cho đến hết thọ mạng tận hiến với đất nước. Hiếu thuận cha mẹ. Lễ kính sư trưởng đồng môn. Một đời một kiếp. Phụng hành không khác. Đặc biệt chuẩn bị sớ văn này dâng biểu. Thiên thượng địa hạ chư Phật Bồ Tát cùng soi xét.”

Đầu tiên phải nói đến là giới luật Chân Phật Tông, cái gọi là “nguyện cho đến hết thọ mạng” tức là sẵn sàng dành hết tất cả sức lực và tuổi thọ của mình để phụng trì chính pháp, giữ nghiêm giới luật. Giới luật này chính là Ngũ giới của Phật pháp, Chân Phật Tông chúng ta là chính tông, là chính pháp của Phật pháp, cho nên phải giữ Ngũ giới của chính pháp. Ngũ giới này là:

1. Không sát sinh — từ tâm thương vật, không giết sinh vật. Càng tích cực phóng sinh.

2. Không uống rượu — không uống rượu ở đây là chỉ không say rượu, không vì rượu mà loạn nhân tính.

3. Không tà dâm — quan hệ tình dục ngoài vợ chồng chính là tà dâm.

4. Không hai lưỡi — không đâm bị thóc chọc bị gạo, phạm khẩu nghiệp, phỉ báng chính nhân chính pháp đều là phạm vào nghiệp này.

5. Không trộm cắp — không phải đồ của mình không được trộm cắp.

Đây là giới luật căn bản nhất của Chân Phật Tông, cũng là giới luật căn bản nhất của Phật pháp. Đệ tử Chân Phật cũng là đệ tử Phật, đương nhiên phải giữ năm giới này. Ngoài ra, tu hành chính pháp Phật môn, hiếu dưỡng cha mẹ, lễ kính sư trưởng, tôn kính đồng môn, đây là căn bản làm người, vậy đương nhiên phải làm được, ngay đến điều này mà không làm được thì xin tự động gửi trả lại chứng thư quy y cho Thượng sư. Bởi vì đệ tử không giữ giới luật như vậy là không như pháp, cho dù có quy y Chân Phật Tông nhưng chưa phụng pháp trì giới thì cũng không khác gì vô dụng, giữ lại một tờ giấy chứng thư quy y cũng chỉ như giấy loại mà thôi.

Phàm là đệ tử Chân Phật giữ năm giới làm mười điều thiện, tôi chúc phúc các đệ tử này, một là không có kẻ thù, rời xa tất cả bệnh tật, tuổi thọ kéo dài và cát tường an lạc. Hai là, người trong gia đình hòa hợp vui vẻ không tranh giành, rời xa mọi sự nịnh nọt, ai ai cũng nhận được sự kính trọng của người đời. Ba là, mọi đệ tử có trì giới hành thiện không ai gặp tai nạn ngoài ý muốn, không có cái chết đột ngột. Bốn là, phàm là người trì giới hành thiện, chư Thiên thường xuyên che chở bảo vệ, khiến các đệ tử quy kính Tam Bảo, đều nguyện tu tập hạnh bồ đề. Năm là, ruộng phúc viên mãn.

Do bởi thế nhân chưa hẳn toàn là Thánh hiền, vì thế tất nhiên sẽ có người phạm giới, người phạm giới nếu có tâm sám hối thì phải tu pháp sám hối. Phát nguyện các nghiệp tội đã làm trước kia, ở trước mặt chư Phật và Thượng sư phải thành tâm phát lộ sám hối.

Tội lỗi trong đời người rất nhiều, muốn kể ra cũng không thể kể hết, ví dụ rất nhiều người về cơ bản là không tin nhân quả, cũng không tin báo ứng, mở miệng ra là “Tôi không tin cái gì hết!”, những người mà cái gì cũng không tin này chính là những kẻ tự kiêu cao ngạo, rất dễ phóng dật [Phóng dật là lối sống buông thả phóng túng theo dục vọng, không có tiết độ, không biết tự giới hạn và kiềm chế bản thân, sống xả láng không cần biết ngày mai.], sẽ càng tạo thêm nghiệp ác.

Người đời ít Thánh hiền, lắm kẻ ngu, tất cả hành vi thường chịu sự trói buộc của vô minh, một khi kết giao với bạn xấu thì rất dễ theo duyên đó mà đi xuống, vì thế người đời giao kết bạn bè phải đặc biệt cẩn thận, bạn bè có rất nhiều tập khí xấu thì ít qua lại với họ, bởi vì một lần theo họ thì sẽ trồng cái gốc cho những lần tiếp theo thuận theo họ, như vậy thì cũng rất dễ tạo mọi ác nghiệp.

Lòng tham cũng là một trong những tập tính của nhân loại, chủng tử tham lam là sự mê hoặc số một ảnh hưởng con người đi về hướng nghiệp tội, ví dụ tham sắc, sắc đẹp thì ai ai cũng yêu thích, người không nên tham lam cũng muốn đi thử chạm một chút, chủng tử tham này sẽ gây phiền phức rầy rà cho người ta, hành giả tu trì phải dùng phương pháp quán không và bất tịnh để chuyển dời suy nghĩ tham sắc. Nếu không tu tập như vậy thì ngay cả lão hòa thượng, lão đạo sĩ cũng vẫn đêm đêm mộng giấc xuân như thường, đêm đêm “đi tiểu trộm”. Không tham hai chữ mỹ sắc này mới xem là người tu chân tồn đức, nếu có hành vi tham sắc, vậy thì đúng là tạo nghiệp tội lớn. Tham tiền cũng như vậy, con người vì tiền mà chết, chim vì tham ăn mà chết, ngoài những gì mà mình đáng được có ra thì tham tiền chính là chủng tử của phiền não, hành giả tu trì phải học tập “tri túc thường lạc”, có tri túc thường lạc rồi mới không có dục vọng tham tiền, đây chính là không tham lam vật phẩm tự mình sẽ là người thanh cao.

Lại vì đố kỵ mà đi nịnh bợ hãm hại người khác, trong lòng cũng thường phiền não.

Còn có nghiệp tội nghiêm trọng hơn là năm tội phản nghịch. Ví dụ phá hoại tháp Phật hoặc chùa Phật, đốt kinh điển sách thiện, phá hủy tượng Phật, lấy trộm tài vật của Tam Bảo. Phỉ báng Phật pháp, sỉ nhục Thánh giáo, bức hại người tu trì chính pháp. Giết hại cha mẹ, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp tăng, giết A La Hán. Không màng đến nhân quả, thường làm mười nghiệp bất thiện, đây chính là năm tội phản nghịch rất nghiêm trọng.

Những người phạm vào nghiệp tội này phải nhanh chóng sám hối, quảng thuyết chính pháp, lợi ích thiên hạ quần sinh, dùng chính pháp để hàng phục tâm ma của chính mình, chuyển đại pháp luân, dùng pháp sáu ba-la-mật để loại bỏ mười nghiệp đại bất thiện, hàng phục tham dục, sân dục, si dục, phiền não và mọi khổ đau đều sẽ được đẩy lùi, khiến tự tính tỏa sáng và đạt viên mãn.

Đệ tử Chân Phật Tông khi có được đại trí huệ túc mệnh, có thể nhớ lại được trăm nghìn kiếp, có thể ngày ngày tu trì chính pháp chính giáo mà Như Lai đã truyền xuống, làm mọi thiện nghiệp tùy duyên, phụng sự vị Thượng sư thù thắng nhất, rời xa tất cả mọi điều bất thiện, cứu giúp bảo vệ chúng sinh mang tội khổ, cấp tốc chứng vô thượng đại bồ đề.

Muốn tu pháp sám hối, có năm mục quan trọng:

1. Thỉnh Phật làm chứng:

Phải phụng thỉnh Vô Lượng Thọ Phật, Thắng Quang Phật, Diệu Quang Phật, A Súc Phật, Công Đức Thiện Quang Phật, Sư Tử Quang Minh Phật, Nhật Quang Minh Phật, Võng Quang Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Bảo Diễm Phật, Diễm Minh Phật, Diễm Thịnh Quang Minh Phật, Cát Tường Thượng Vương Phật, Vi Diệu Thanh Phật, Diệu Trang Nghiêm Phật, Pháp Tràng Phật, Thượng Thắng Thân Phật, Khả Ái Sắc Thân Phật, Quang Minh Biến Chiếu Phật, Phạn Tịnh Vương Phật, Thượng Tính Phật. Ở đây là thỉnh ba vị Phật ở phương Tây, năm vị Phật ở phương Đông, năm vị Phật ở phương Nam, tám vị Phật ở phương Bắc. 21 vị Phật này cùng phụng thỉnh và quán tưởng các vị đến và trụ trong không trung, trở thành những vị làm chứng cho việc sám hối của bạn.

2. Phóng quang tiêu chướng:

Uy lực của 21 vị Phật này có thể khiến người đã làm mọi ác nghiệp có thể diệt tội được phúc, đó là công đức chân thực của 21 vị Phật. Người tu trong lúc tĩnh lặng nhớ nghĩ đến 21 vị Phật đến trụ trong hư không, lần lượt từng vị Phật từ những lỗ chân lông trên người phóng ra vô lượng ánh sáng, có trăm nghìn loại màu sắc ánh sáng. Đầu tiên ánh sáng từ trong lỗ chân lông của các vị Phật phóng ra, sau đó tỏa sáng mạnh mẽ, sau đó đan xen thành vô lượng màu sắc. Khi ánh sáng chiếu ra thì các sát thổ của mười phương thế giới đều biến thành Phật quốc, còn bản thân cũng an trụ trong thế giới ánh sáng đó. Mọi ngũ trọc ác thế đều được Phật quang chiếu tới. 21 vị Phật này phóng ánh sáng chiếu khắp, hễ chiếu tới uế quốc thì sẽ hóa thành Phật quốc. Ánh sáng này chiếu tới mọi chúng sinh, khiến mười ác nghiệp của mọi chúng sinh, năm tội vô gián, người phỉ báng Tam Bảo, bất kính với thầy, bất hiếu với cha mẹ, lẽ ra phải đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thì nay đều có được ánh sáng của 21 vị Phật mà được lộc giải thoát. Ánh sáng chiếu đến chính mình, khiến ác nghiệp của bản thân tiêu trừ, vì có được sức mạnh bao trùm của Phật quang mà đều được an lạc, đoan chính, đầy đủ mọi phúc huệ, trang nghiêm như Phật, được thấy tất cả chư Phật của thập phương tam thế.

3. Xưng danh trì chú:

Nếu người tu trì nhìn thấy ánh sáng thì phải thành tâm xưng niệm tên của 21 vị Phật hai lần, sau đó trì Thất Phật diệt tội chân ngôn: “Li-pô, li-pô-tê, ki-ô, ki-ô-tê, tô-lô-ni-tê, ni-a-la-tê, pi-li-ni-tê, mua-hưa-ki-a-tê, chân-linh, chiên-tê, sô-ha.” Trì chú này tổng cộng 108 biến đến 1080 biến.

4. Quán tưởng thủ ấn:

Tay trái nắm lại đặt tại eo. Tay phải mở ra, năm ngón tay đặt bằng nhau, giống như sáng sáng ngũ sắc đều tự nhiên phóng ra, bàn tay đặt ở giữa ngực.

5. Hồi hướng sám hối:

Nghiệp chướng mà mình đã tạo ra trong nhiều kiếp lẽ ra phải đọa vào trong ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hoặc cảnh giới atula, hoặc thậm chí ở tám nơi khó sống, đều vì con tu tập chính pháp hồi hướng, nên mọi nghiệp chướng đều được tiêu diệt, mọi ác báo sau này sẽ không phải chịu. Cũng như ngày xưa các đại Bồ Tát tu hạnh bồ đề, mọi nghiệp chướng đều sám hối toàn bộ, nghiệp chướng của con cũng đều phát lộ sám hối tất cả, không dám có điều gì che giấu không kể. Hiện tại toàn bộ tội được tiêu trừ, sau này những việc ác không dám tái phạm. Đặc biệt phụng thỉnh 21 vị Phật làm chứng.

Tu trì pháp này chính là pháp Linh Tiên căn bản sám hối, người tu trì pháp này cũng có được sự gia trì của pháp Tứ gia hành và Thượng sư tương ứng, tất cả làm theo nghi quỹ, tự nhiên có thể giải thoát tội chướng, được phúc vô lượng.

04. 14 đại giới căn bản của Mật giáo

14 điều vi phạm căn bản:

Điều 1: Thân khẩu ý không cung kính đối với Thượng sư.

Điều 2: Không tuân thủ quy tắc và lễ nghi Hiển-Mật.

Điều 3: Khởi tâm oán hận và tranh giành đối với anh em huynh đệ kim cương đồng tu.

Điều 4: Đánh mất lòng từ bi, đố kỵ với niềm vui của chúng sinh.

Điều 5: Ngại khó mà không độ chúng sinh, đánh mất bồ đề tâm.

Điều 6: Phỉ báng kinh điển Hiển-Mật không phải do Phật thuyết.

Điều 7: Dạy Mật pháp khi bản thân chưa được quán đảnh làm Thượng sư và chưa có đủ uy tín.

Điều 8: Làm tổn hại người khác, tự làm khổ bản thân là không như Phật.

Điều 9: Thiên vị giữa Không và Hữu, không học tâm Không.

Điều 10: Làm bạn bè với kẻ phỉ Phật phá pháp và làm hại chúng sinh.

Điều 11: Khoe khoang pháp thù thắng mà quên mất ý nghĩa sâu xa.

Điều 12: Không nói những điều gây trở ngại và phá hoại thiện căn tu Mật pháp chân thật của người khác.

Điều 13: Pháp khí và tài liệu Mật pháp không hoàn thành.

Điều 14: Phỉ báng tự tính trí huệ của nữ giới.

05. Giải thích về 14 đại giới căn bản của Mật giáo

Điều 1: Thân khẩu ý không cung kính đối với Thượng sư.

Giải thích: Vì Thượng sư thay Phật truyền pháp, là một thể Tam Bảo, Mật giáo lấy thầy làm quy y đầu tiên, bình thường phải xem thầy như Phật. Cho nên đệ tử trước khi quy y phải tìm hiểu kĩ về vị thầy, để tránh sau khi quy y xong thì hối hận, trở thành có thân khẩu ý bất kính đối với thầy. Một khi đã quy y rồi thì phải kính trọng thầy, như vậy mới có công đức, mới có thành tựu Phật pháp. Nếu phỉ báng thì sẽ phạm vào điều thứ nhất của 14 đại giới căn bản của Mật giáo, đọa vào địa ngục kim cang.

Nếu sau khi quy y thầy mà thật sự biết rằng đây là một vị thầy giả, không có hành vi tu hành Phật pháp chân chính, có thể cách xa người thầy này, sau đó quy y vị thầy chân chính, nhưng đối với người thầy ban đầu tốt nhất cũng không được phê bình phỉ báng, như vậy mới vẫn có thể xem là đệ tử Kim cương thừa.

Điều 2: Không tuân thủ quy tắc và lễ nghi Hiển-Mật.

Giải thích: Giới luật của Hiển giáo Mật giáo có rất nhiều, đó là các quy tắc để phóng tránh và ngăn chặn các tín đồ Phật giáo làm những hành vi tà ác, ví dụ ngũ giới, thập thiện, thậm chí là 250 giới đều có cả. Sức mạnh có được từ việc giữ giới chính là uy lực, đệ tử Mật giáo Kim cương thừa thì các quy tắc và lễ nghi Hiển-Mật đều phải giữ mới được.

Điều 3: Khởi tâm oán hận và tranh giành đối với anh em kim cương.

Giải thích: Giữa đồng môn với đồng môn, hoặc giữa đồng môn với môn đồ phái khác, đều là Kim cương thừa, không được khởi tâm oán ghét hoặc tranh đấu. Vì thế Chân Phật Tông có lễ kính đồng môn, tôn kính thượng sư, đặc biệt quan trọng.

Điều 4: Đánh mất lòng từ bi, đố kỵ với niềm vui của chúng sinh.

Giải thích: Đệ tử Kim cương thừa phải có tâm từ bi, không được đố kỵ.

Điều 5: Ngại khó mà không độ chúng sinh, đánh mất bồ đề tâm.

Giải thích: Dùng tâm từ bi để độ chúng sinh, cho dù người đại ác cũng đều phải độ hóa họ, không sợ khó khăn, không được rút lui, vì chúng sinh đều có Phật tính, hãy đi cảm động họ, không thể sợ khó khăn mà đánh mất chính niệm bồ đề, và phát tâm bồ đề chính là đại phát tâm độ hết chúng sinh.

Điều 6: Phỉ báng kinh điển Hiển-Mật không phải do Phật thuyết.

Giải thích: Xã hội ngày nay, có rất nhiều người phỉ báng kinh điển, nói rằng quyển này là kinh giả, quyển kia cũng là kinh giả, khi còn chưa biết rõ thì tốt nhất đừng bình luận ngông cuồng, bởi vì bình luận ngông cuồng chính là phỉ báng, cũng là phạm giới.

Điều 7: Dạy Mật pháp khi bản thân chưa được quán đảnh làm Thượng sư và chưa có đủ uy tín.

Giải thích: Người truyền thụ Mật pháp, chỉ có người có đủ tư cách làm Thượng sư mới có thể truyền thụ Mật pháp, tư cách Thượng sư là phải do Căn bản Thượng sư (vị thầy gốc) cho phép, và nhập vào Tỳ Lô tính hải được Bổn tôn cho phép. Nếu không có hai sự cho phép này, tự xưng là Thượng sư để truyền dạy Mật pháp, gọi là không đủ năng lực quán đảnh và uy tín. Không có quán đảnh, không có uy tín, chưa có được danh hiệu Thượng sư thật, thì không được truyền thụ Mật pháp.

Điều 8: Làm tổn hại người khác, tự làm khổ bản thân là không như Phật.

Giải thích: Kim cương Thượng sư giống như Phật, đệ tử Kim cương thừa chính là Phật tử, cũng là Pháp Vương tử, làm tổn hại người khác, gây đau khổ cho chính mình, tâm đầy ắp ngũ uẩn, đều không hợp với giới luật của Phật.

Điều 9: Thiên vị giữa Không và Hữu, không học tâm Không.

Giải thích: Không và Hữu phải coi trọng như nhau, “không tâm” tức là “vô tâm”, pháp môn này cũng phải tu chứng, không được thiên vị.

Điều 10: Làm bạn bè với kẻ phỉ Phật phá pháp và làm hại chúng sinh.

Giải thích: Điều này có vẻ xung đột với điều thứ năm, thật ra không phải. Chúng ta có thể đi độ hóa kẻ phỉ Phật phá pháp, độ hóa kẻ làm thương hại chúng sinh, nhưng không được đứng trên cùng một chiến tuyến với những kẻ phỉ Phật phá pháp và làm hại chúng sinh, không được giao kết bạn bè và chơi với nhau.

Điều 11: Khoe khoang pháp thù thắng mà quên mất ý nghĩa sâu xa.

Giải thích: Tự mình thường xuyên nhấn mạnh pháp lực của mình là số một, dùng pháp lực để phô trương, đánh mất ý nghĩa vốn có của việc bản thân tu Mật tông là để thành Phật, cứu chúng sinh, phát bồ đề tâm.

Điều 12: Không nói những điều gây trở ngại và phá hoại thiện căn tu Mật pháp chân thật của người khác.

Giải thích: Thượng sư chân chính phải truyền thụ Mật pháp chân chính, nếu không truyền thụ Mật pháp chân chính và không độ tất cả chúng sinh hữu duyên tức là cản trở và phá hoại thiện duyên, là phạm giới.

Điều 13: Pháp khí và tài liệu Mật pháp không hoàn thiện.

Giải thích: Tu mọi pháp, dùng mọi pháp khí, truyền mọi pháp, tài liệu phải đầy đủ, mới không phạm giới.

Điều 14: Phỉ báng tự tính trí huệ của nữ giới.

Giải thích: Đối với nữ giới học đạo, không được phá hoại huệ tính của họ, tức là ý nghĩa bình đẳng quan.

06. Làm sao để quy y Liên Sinh Hoạt Phật

Viết thư xin quy y:

Bởi vì người muốn quy y phân bố ở mọi ngóc ngách trên khắp thế giới, do vậy đích thân đến quy y không dễ dàng. Vì thế, đệ tử muốn quy y chỉ cần vào ngày mồng 1 hoặc ngày 15 âm lịch hàng tháng, vào lúc 7 giờ sáng, quay mặt về phía mặt trời mọc và chắp tay lại, cung kính đọc chú Tứ quy y: “Namo guru bei, namo buddha ye, namo dharma ye, namo sangha ye. Liên Sinh Hoạt Phật chỉ dẫn, quy y Chân Phật Tông.” Đọc 3 lần. Vái lạy 3 lần.

Đệ tử làm nghi thức tại nhà mình xong thì phải viết thư, ghi rõ họ tên, địa chỉ, tuổi thật của mình, tùy ý gửi kèm thêm một khoản phí cúng Phật, trong thư chú thích rõ là “Xin quán đảnh quy y”. Sau đó gửi đến Chân Phật Mật Uyển ở Mỹ.

Địa chỉ Chân Phật Mật Uyển - Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn:

Grand Master Sheng-yen Lu 17102 NE 40th Ct. Redmond, WA 98052, USA.

Tel: 425-885-7573 Fax: 425-883-2173

Bên phía Liên Sinh Hoạt Phật vào mỗi ngày mồng 1 hoặc 15, đều cử hành nghi thức quán đảnh cách không tại Chân Phật Mật Uyển để quán đảnh từ xa cho những đệ tử không thể tự mình đến. Sau đó sẽ gửi chứng thư quy y và một tấm ảnh pháp tướng của Thượng sư đến cho mọi người, đồng thời chỉ dẫn bắt đầu tu từ pháp nào. Như vậy là đã có được truyền thừa của Liên Sinh Hoạt Phật.

Tự mình đến quy y:

Trước tiên cần liên lạc để hẹn thời gian, có thể đến Chân Phật Mật Uyển tại thành phố Redmond Seattle ở Mỹ, hoặc các đơn vị hoằng pháp sở tại của Liên Sinh Hoạt Phật, để do chính Liên Sinh Hoạt Phật quán đảnh quy y, hoặc thỉnh cầu trợ giúp quy y từ các phân đường Chân Phật Tông ở địa phương. (Các phân đường Chân Phật Tông phân bố trên toàn thế giới.)

Hết.


Share:

 

CHO THUÊ NHÓM BÁN HÀNG GIÁ RẺ - TƯƠNG TÁC CAO🔥

 


CHO THUÊ NHÓM BÁN HÀNG GIÁ RẺ - TƯƠNG TÁC CAO🔥

 Hệ thống hơn 1000 nhóm tương tác cao
 Cho bán tất cả các loại mặt hàng: quần áo, giày dép, túi xanh, mỹ phẩm, đến thảo mộc dân tộc
 Tư vấn nhóm bán hàng với từng mặt hàng
🤳 Việc của bạn chỉ cần để lại CMT/INBOX còn lại cứ để chúng tôi lo
✍️ CAM KẾT
 Tự tin sẽ mang lại lượng khách hàng tiềm năng cực khủng cho bạn
 Giúp bạn tương tác tốt trong nhóm
 Đăng bài tỷ lệ hiển thị cao, duyệt bài tự động ko cần chờ.
Tiếp cận hơn 10 triệu thành viên mỗi ngày.
➡️ KHÔNG RA ĐƠN HOÀN 100% TIỀN THUÊ NHÓM.
-----------------

 Cung Cấp Fanpage/ group Bán Hàng & Xây Dựng Thương Hiệu 
👉 Chuyên cung cấp Fanpage 🕓bán hàng từ 5k -->100k Like 🔊🔊🔊
* Cam kết Fanpage 100% là like tự nhiên, tương tác tốt , hàng chính chủ (bao sang tên đổi chủ) . 💯💯
* Có nhiều dạng Fanpage như : Fanpage đã qua bán hàng , Giải trí , du lịch , ẩm thực , thể thao , mẹ và bé vv ... Rất rất nhiều dạng để bạn lựa chọn từ Fanpage tập trung chủ yếu là Nam - Cho đến fanpage nhiều nữ , độ tuổi từ 13-54 tuỳ vào mặt hàng bạn kinh doanh mà lựa chọn cho phù hợp.
👉 Khi mua Fanpage bên chúng tôi , anh chị sẽ được :
➡️ Hỗ trợ đổi tên Fanpage .
➡️ Xoá tất cả bài viết cũ ( nếu yêu cầu ) .
➡️ Có chế độ bảo hành Fanpage cực tốt .
Còn chần chờ gì nữa mà không inbox em chọn cho mình 1 Fanpage về chạy quảng cáo kinh doanh mặt hàng

🌈🌈Contact:https://www.facebook.com/chothuebanhang
https://www.facebook.com/groups/bandoivn/

Flag Counter

PHẦN MỀM CẮT VIDEO ONLINE

Cho Thuê Group Facebook

Tổng số lượt xem trang

Bài mới đăng

Cho Đặt Banner Quảng cáo

Ủng Hộ Chúng Tôi

Quốc Gia Truy Cập

Flag Counter

Liên hệ Nhà thơ Hoàng Huy

Tên

Email *

Thông báo *

Like Fanpage Phong Thủy để cập nhật các thủ thuật mới nhất mỗi ngày OK Để sau