MỤC VỤ HÔN NHÂN
TRƯỚC KHI CỬ HÀNH BÍ TÍCH HÔN NHÂN
Liên quan tới những người dự định kết hôn
Quyền kết hôn và lập gia đình là một quyền căn bản của con người được Giáo luật và Dân luật tôn trọng và bảo vệ. Do đó, những ai không bị luật cấm đều có quyền kết hôn, tuy nhiên chúng ta cần phải xem người đó có liên quan tới những qui định của giáo luật:
1. Về tuổi tác : Điều luật 1083 §1 hạn định tuổi kết hôn là người nam tròn 16 tuổi, người nữ tròn 14 tuổi, tuy nhiên §2 trao cho HDGM quyền ấn định tuổi phù hợp với quốc gia, nền văn hóa nước đó. Tại Việt-Nam, HDGM VN ấn định người nam 20 tuổi và người nữ 18 tuổi kết hôn hợp thức; nếu có trường hợp đặc biệt phải xin phép Đấng Bản Quyền Giáo phận.2. Về sức khỏe: Người nam và người nữ phải là những người lành mạnh và trưởng thành về tâm sinh lý. Trên nguyên tắc dù người nam hay người nữ mắc bệnh gì cũng có quyền kết hôn, với điều kiện là người phối ngẫu đã được thông báo trước và vẫn đồng ý kết hôn (bệnh xã hội…). Tuy nhiên, với một người không có khả năng sống đời vợ chồng (như điên khùng hay bất lực giao hợp vĩnh viễn) thì tiêu hủy hôn nhân (đ.1084)3. Về sự tự do kết hôn : Các đương sự phải được tự do chọn lựa kết hôn, có nghĩa tự do chọn lựa vợ chồng. Mọi hình thức gây áp lực tâm, thể lý ảnh hưởng đến sự tự do kết hôn đều vi phạm nhân phẩm con người, và làm cho hôn nhân vô hiệu. Việc đính hôn hay lễ ăn hỏi không nhất thiết buộc phải kết hôn, mà chỉ có quyền đòi đền bù thiệt hại nếu việc kết hôn không thành.4. Về huyết tộc : Hội Thánh cấm kết hôn với người có liên hệ huyết tộc trực hệ (họ máu hàng dọc) dù pháp lý hay tự nhiên; hay có liên hệ bàng hệ (họ máu hàng ngang) đến đời thứ bốn: sự kết hôn vô hiệu (đ.1091). Như vậy, không ai có quyền kết hôn với con ruột, con nuôi, con ngoại hôn của mình; không được kết hôn với cháu nội hay cháu ngoại, với anh chị em ruột của mình.5. Về liên hệ hôn nhân: Các đương sự phải là những người chưa kết hôn hoặc đã kết hôn mà người phối ngẫu đã chết. Không được kết hôn với họ hàng trực hệ của người phối ngẫu đã chết. Giáo hội cũng cấm việc kết hôn với người họ hàng trực hệ của người đã sống chung như vợ chồng hay tư tình công khai với mình.Người ly thân và ly dị không được tái hôn (vì dây hôn phối vẫn còn tồn tại bao lâu người phối ngẫu chưa chết hoặc chưa được tháo gỡ dây hôn phối vì hà tỳ trong hôn nhân). Người còn vướng mắc nghĩa vụ liên quan đến hôn nhân (không chu cấp cho con ngoại hôn sinh kiện cáo), có thể bị Giáo hội từ chối, chưa cho phép kết hôn.6. Về sự hiểu biết liên quan tới hôn nhân: Các đương sự phải hiểu rõ hôn nhân là gì, các điều kiện cần phải có, ý nghĩa của lời ưng thuận, các nghĩa vụ và quyền lợi của đời sống vợ chồng. Chúng ta đều biết, sau tuổi dạy thì có thể suy đoán là có sự hiểu biết này.7. Về tôn giáo : Tôn giáo ảnh hưởng rất quan trọng tới đời sống hôn nhân, nhất là khi quan niệm về hôn nhân giữa hai tôn giáo khác nhau (công nhận đa thê, ly dị). Giáo hội Công giáo mong ước những người cùng niềm tin kết hôn với nhau; đồng thời cũng cho phép kết hôn với người khác đạo hoặc cùng Kitô giáo nhưng không hiệp thông với Hội Thánh Roma. Hôn nhân với người chưa được Rửa tội mà không có phép chuẩn thì không có giá trị trước mặt Giáo hội. Những người đã thề hứa sống độc thân (phó tế, linh mục và tu sĩ khấn trọn đời) phải xin miễn chuẩn đặc biệt để kết hôn thành sự.8. Về thủ tục: việc kết hôn Công giáo phải được Rao công khai ở những nơi đương sự sống thời gian lâu dài. Tại Việt-Nam, phải rao trong Nhà thờ xứ Ba tuần, (việc rao 2 lần hay 1 lần tùy quyết định của Giám mục Giáo phận). Trong mục vụ, cần yêu cầu đôi bạn phải những giấy tờ sau:– Giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức mới cấp chưa quá sáu tháng.– Hộ khẩu và chứng minh nhân dân (nếu linh mục không biết mặt đương sự)– Giấy giới thiệu của Cha xứ mỗi đương sự, nếu ở giáo xứ khác chuyển đến xác nhận tình trạng độc thân của đương sự.– Khi quyết định ngày chứng hôn theo Giáo luật, có giấy Đăng ký kết hôn dân sự.– Nếu được nhờ chứng hôn, phải có giấy Ủy quyền của Cha có trách nhiệm và giấy chứng nhận đã học giáo lý căn bản và giáo lý hôn nhân.
Về phía các vị chủ chăn
Các vị chủ chăn tôn trọng quyền được kết hôn theo nghi thức tôn giáo của các đương sự, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ kết hôn theo đúng thủ tục của Giáo hội; đồng thời lo cho họ học hỏi về giáo lý hôn nhân và giúp đỡ họ thêm về đời sống đức tin trong thời kỳ chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân.
Các linh mục (đặc biệt cha xứ hoặc cha phụ trách) có bổn phận giúp đỡ đôi bạn và chuẩn bị nghi thức hôn phối như sau:
– Giúp họ xác định niềm tin Kitô giáo và chuẩn bị cho họ có một đức tin trưởng thành. Nếu họ chưa được lãnh Bí tích Thêm sức, phải lo liệu cho họ nhận Bí tích này trước khi kết hôn, vì họ sẽ trở nên chứng nhân đức tin và giáo dục đức tin cho con cái. Lưu ý vị chủ chăn KHÔNG được phép cử hành hôn phối cho người đã công khai chối bỏ đức tin Kitô giáo.– Giúp họ ý thức về hôn nhân và chuẩn bị đảm nhận những nghĩa vụ vợ chồng và cha mẹ trong gia đình Kitô giáo.– Phải điều tra hôn phối về đôi bạn, để chắc chắn đôi bạn không có ngăn trở gì. Rất mong các Cha thuộc các Giáo phận, giáo xứ khác nhau có bổn phận giúp đỡ lẫn nhau vì luật, vì trách nhiệm, vì tình huynh đệ cũng như tạo nên hình ảnh vị mục tử nhân hiền, nhẫn nại cho các đôi bạn chuẩn bị bước vào Hôn nhân.– Chuẩn bị việc cử hành hôn nhân tốt đẹp theo quy tắc Phụng vụ.
Về phía gia đình và cộng đoàn dân Chúa
Gia đình phải tôn trọng quyền kết hôn và quyền tự do chọn lựa bạn đời của các đương sự; gia đình có trách nhiệm giáo dục và hướng dẫn chứ không được quyết định thay con cháu mình.
Cộng đồng dân Chúa sẵn sàng giúp đỡ các đương sự, nếu có gì ngăn trở việc kết hôn thì buộc phải trình lại với Cha xứ hoặc Cha phụ trách hôn nhân. Cộng đoàn sẽ có mặt trong ngày cử hành Hôn nhân để chứng giám, và cầu nguyện cho đôi tân hôn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét